Go Back   Cựu Học Sinh Lê Quý Đôn - Long An > :: Câu Lạc Bộ :: > ..:: CLB Văn Thơ ::..

..:: CLB Văn Thơ ::.. Văn học , Thơ , Truyện , tùy bút , ..

Da Vinci code

Da Vinci code

this thread has 100 replies and has been viewed 53385 times

Gởi Ðề Tài Mới Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
Old 25-07-2006, 05:14 PM   #1
Hồ sơ
foureyes
Senior Member
 
foureyes's Avatar
 
Tham gia ngày: Nov 2004
Số bài viết: 682
Tiền: 25
Thanks: 18
Thanked 254 Times in 157 Posts
foureyes is an unknown quantity at this point
Default

Dan Brown

MẬT MÃ DA VINCI

Dịch giả: Đỗ Thu Hà




NHỮNG SỰ VIỆC CÓ THẬT


Tu viện Sion - một hội kín ở châu Âu được thành lập năm 1099 - là một tổ chức có thật.
Năm 1975, Thư viện Quốc gia Pháp ở Paris phát hiện thấy những văn bản trên giấy da, được gọi là Les Dossiers Secrects (Hồ sơ bí mật) xác nhận một số thành viên của Tu viện Sion, trong đó có Ngài Isaac Newton, Botticelli, Victor Hugo và Leonardo da Vinci.
Giám mục đoàn Vatican, được gọi là Opus Dei (Tác phẩm của Thượng Đế), là một giáo phái Thiên Chúa sùng tín sâu sắc và dã là một dề tài tranh cãi gần đây do những tin về việc tẩy não, cưỡng bách và một tục lệ gọi là "hành xác". Opus Dei vừa hoàn thành xây dựng một tổng hành dinh trị giá 47 triệu đô la ở số 243 Đại lộ Lexington, New York.
Mọi sự mô tả các tác phẩm nghệ thuật, kiến trúc, tài liệu và lễ thức bí mật trong tiểu thuyết này đều xác thực.





Mở đầu

Bảo tàng Louvre


10g 46’ tối
Jacques Saunière, người phụ trách nổi tiếng của Bảo tàng Louvre, loạng choạng qua cửa tò vò có mái vòm trong Hành Lang Lớn của Bảo tàng. Ông lao tới bức tranh gần nhất ông có thể nhìn thấy, một bức Caravaggio. Nắm lấy vành khung dát vàng, ông già bảy mươi sáu tuổi nhấc bức kiệt tác kéo về phía mình cho đến khi nó bật tung khỏi tường, và Saunière ngã ngật người dưới tấm toan.

Như ông đã tính trước, một cánh cổng sắt đổ đánh rầm ngay gần đó, chặn lối vào dãy hành lang. Sàn gỗ rung lên. Đằng xa, chuông báo động bắt đầu ré lên.
Ông phụ trách bảo tàng nằm yên một lúc, thở hổn hển, nhận định tình hình. Mình vẫn còn sống. Ông trườn ra từ phía dưới bức tranh và nhìn trân trân vào khoảng trống hoác xem có nơi nào ẩn trốn được.

Một giọng nói cất lên, gần đến ớn lạnh: "Không được động đậy".

Trong tư thế bò, ông phụ trách bảo tàng sững người, từ từ quay đầu lại.
Chỉ cách ông khoảng năm mét, bên ngoài cánh cổng chặn lối, cái bóng khổng lồ của kẻ tấn công chằm chằm nhìn qua song sắt. Hắn to cao, nước da trắng trợt như ma và mái tóc bạch kim thưa. Tròng mắt hồng với đồng tử đỏ sậm. Gã bạch tạng rút từ áo khoác ra một khẩu súng lục và chĩa nòng súng qua chấn song thẳng vào ông phụ trách bảo tàng: "Đáng lẽ vừa nãy, ông không nên chạy". Giọng hắn không dễ gì xác định được là người vùng nào: "Giờ thì nói cho tôi biết nó ở đâu".
"Tôi đã nói với ông rồi", ông phụ trách bảo tàng lắp bắp, quỳ chơ vơ trên sàn Hành Lang Lớn. "Tôi không biết ông nói về chuyện gì nữa".

"Ông nói dối?". Hắn nhìn ông chằm chằm, bất động hoàn toàn trừ tia sáng lóe lên trong dôi mắt ma quỷ. "Ông và các đạo hữu của ông sở hữu thứ gì đó không phải của mình".

Ông phụ trách bảo tàng cảm thấy sợ thót người. Làm sao hắn có thể biết điều này?
"Tối nay! Châu sẽ về Hợp Phố. Nói tôi biết nó được giấu ở đâu thì ông sẽ sống". Hắn chĩa súng vào đầu ông. "Đó có phải là một bí mật bõ cho ông chết vì nó không?".

Saunière nghẹt thở.
Hắn nghiêng đầu, nhắm qua nòng súng.
Saunière giơ tay lên che chắn: "Khoan đã". Ông nói chậm rãi. "Tôi sẽ nói cho ông những gì ông cần biết". Người phụ trách bảo tàng nói những lời tiếp theo một cách cẩn trọng. Điều ông nói là một lời nói dối mà ông đã ôn tập nhiều lần và lần nào ông cũng cầu sao sẽ không bao giờ phải dùng đến nó.

Khi người phụ trách bảo tàng nói xong, kẻ tấn công ông tủm tỉm cười đắc ý: "Phải. Đó chính xác là những gì mấy người kia đã nói với tôi".

Saunière giậl bắn người. Mấy người kia?
"Tôi cũng dã tìm thấy bọn họ", tên to con chế giễu "cả ba người. Họ khẳng định những gì ông vừa nói".

Không thể thế được! Nhân thân thật của người phụ trách bảo tàng, cùng với nhân thân của ba pháp quan cũng thiêng liêng gần như điều bí mật cổ xưa mà họ bảo vệ. Giờ đây, Saunière hiểu ra rằng những pháp quan của ông, theo một thủ tục nghiêm khắc, đã nói dối hệt như ông trước khi họ chết. Đó là một phần của nghi thức.

Kẻ tấn công lại ngắm súng: "Khi ông chết đi, tôi sẽ là người duy nhất biết sự thật".
Sự thật. Trong giây lát, người phụ trách bảo tàng chợt hiểu ra sự kinh khủng thực sự của tình thế. ếu mình chết, sự thật sẽ biến mất mãi mãi. Theo bản năng, ông cuống cuồng bò tìm chỗ trốn.

Súng nổ, và Saunière cảm thấy bỏng rát khi viên đạn găm vào bụng. Ông ngã về phía trước… vật lộn với cái đau. Từ từ, Saunière lật ngửa người, ngoái nhìn kẻ tấn công qua song sắt. Tên này đang ngắm phát súng kết liễu vào đầu Saunière.
Saunière nhắm mắt lại, những ý nghĩ của ông như một cơn bão lốc lẫn lộn cả sợ hãi và tiếc nuối.

Tiếng "cạch" của ổ đạn rỗng vang vọng trong hành lang. Ông phụ trách bảo tàng mở choàng mắt.

Tên kia liếc nhìn khẩu súng, vẻ thích thú. Hắn toan nạp kẹp đạn thứ hai, nhưng rồi dường như suy tính lại, hắn cười khẩy bình thản nhìn bụng Saunière: "Công việc của tôi ở đây đã hoàn tất".

Người phụ trách bảo tàng nhìn xuống và thấy vết đạn trên áo sơmi lanh trắng của mình. Một vòng tròn máu viền quanh vết đạn bên dưới xương ức khoảng dăm phân. Trúng bụng mình..

Tệ thay, viên đạn đã không trúng tim ông. Là cựu chiến binh của la Guerre d'Algerre , trước đây, ông đã từng chứng kiến cái kiểu chết kéo dài khủng khiếp này. Trong vòng mười lăm phút, ông sẽ sống cho đến khi axit trong dạ dày thấm vào khoang ngực và từ từ đầu độc ông từ bên trong.

"Đau đớn là tốt, thưa quý ông", hắn nói.
Rồi bỏ đi.

Giờ đây khi chỉ còn lại một mình, Jacques Saunière quay sang nhìn trân trối vào cánh cổng sắt. Ông đã mắc kẹt, và các cửa không thể được mở lại ít nhất trong vòng hai mươi phút.

Đến khi có ai đó đến được chỗ ông, thì ông đã chết. Ngay cả như thế, thì nỗi sợ hãi giờ đây đang siết chặt tim ông còn lớn hơn nhiều so với nỗi sợ về cái chết của chính bản thân ông.

Mình phải truyền lại bí mật này.

Chệnh choạng đứng dậy, ông tưởng tượng ra cảnh ba giáo hữu của mình bị sát hại. Ông nghĩ về các thế hệ trước họ… về sứ mệnh mà tất cả bọn họ đã được ủy thác.
Một chuỗi kiến thức liên tục không đứt đoạn.

Đùng một cái, giờ đây, bất chấp mọi phòng ngừa… bất chấp mọi cơ cấu an toàn… Jacques Saunière là mắt xích duy nhất còn lại là người bảo vệ duy nhất của một trong những bí mật có quyền năng nhất từng được lưu giữ.

Run rẩy, ông cố đứng lên.
Ta phải tìm cách nào đó…

Ông bị kẹt trong Hành Lang Lớn, và chỉ có một người duy nhất trên thế giới này ông có thể trao lại ngọn đuốc. Saunière nhìn lên những bức tường phòng giam lộng lẫy của mình. Một bộ sưu tập gồm những bức tranh nổi tiếng nhất thế giới như đang cúi xuống mỉm cười với ông tựa những người bạn cũ.

Nhăn nhó vì đau đớn, ông huy động hết sức lực và khả năng của mình. Cái nhiệm vụ cực kỳ nghiêm trọng trước mắt ông - ông biết - sẽ đòi hỏi mỗi phút giây còn lại của đời ông.


Chú thích:



(1) Sion (hay Zion) là ngọn đồi thánh ở Jerusalem cổ cũng dùng để gọi cả Jérusalem. Về sau, tử này được mở rộng nghĩa để chỉ: chính thể thần quyền Hebrơ, Giáo hội Cơ-đốc, nước của Chúa. . Chúng tôi để nguyên không dịch vì ở dây có thể hiểu theo mọi nghĩa đó.


(2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: sénécheux (số nhiều của sénéchal). Sénéchal ban đầu, chỉ chức quan trong triều đình chuyên giới thiệu các món ăn, sau này, chỉ chức quan ở tỉnh với chức năng tương đương như pháp quan (Các chú thích trong bản dịch lần này đều của người hiệu đính)


(3) Tiếng Pháp trong nguyên bản: chiến tranh Algerie


(còn tiếp)

(theo vnthuquan.net)
__________________

foureyes is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn
Đã có 4 thành viên gửi lời cám ơn đến foureyes vì bạn đã đăng bài:
AnthonyGync (15-05-2014), JosephDora (24-10-2014), MyLove (31-10-2007), Vikifgb (17-10-2022)
Old 25-07-2006, 05:19 PM   #2
Hồ sơ
foureyes
Senior Member
 
foureyes's Avatar
 
Tham gia ngày: Nov 2004
Số bài viết: 682
Tiền: 25
Thanks: 18
Thanked 254 Times in 157 Posts
foureyes is an unknown quantity at this point
Default

Chương 1


Robert Langdon từ từ tỉnh giấc. Điện thoại reo trong bóng tối- tiếng chuông leng keng nghe lạ lẫm. Ông dò dẫm tìm ngọn đèn cạnh giường và bật lên. Nheo mắt nhìn xung quanh ông nhận thấy đó là một phòng ngủ kiểu Phục Hưng sang trọng với đồ đạc theo phong cách thời Louis XVI với những tranh vẽ thẳng lên tường, và một chiếc giường gỗ gụ đồ sộ bốn cột.

Mình đang ở chỗ quái quỷ nào thế này?

Chiếc áo tắm mắc trên cột giường mang dòng chữ: Hotel Ritz Paris.

Màn sương tan dần.

Langdon nhấc ống nghe: "Hello?".

"Ông Langdon phải không ạ?", một giọng đàn ông vang lên. "Tôi hy vọng là không đánh thức ông chứ ạ?".

Ngạc nhiên, Langdon nhìn đồng hồ cạnh giường. 0 giờ 32’ sáng. Ông mới ngủ được một tiếng mà cảm thấy như lâu lắm.

"Tôi là người trực khách sạn, thưa ông. Tôi xin lỗi vì sự đường đột này, nhưng có một vị khách khăng khăng đòi gặp ông, nói là có việc khẩn cấp".

Langdon vẫn cảm thấy lơ mơ. Một vị khách? Tia mắt ông tập trung vào một tờ bướm bị vò nhàu trên bàn cạnh giường.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ TẠI PARIS
Trân trọng giới thiệu
MỘT TỐI GẶP GỠ VỚI ROBERT LANGDON
GIÁO SƯ KHOA KÝ TƯỢNG TÔN GIÁO, ĐẠI HỌC HARVARD

Langdon hầm hừ. Buổi thuyết giảng tối nay - một bài giảng về hệ ký tượng vô tôn giáo ẩn chứa trong các phiến đá của Nhà thờ lớn Chartres, có minh họa bằng phim đèn chiếu - chắc đã làm xù lông một vài vị bảo thủ trong đám thính giả. Rất có thể là một học giả nghiên cứu tôn giáo nào đó đã bám theo ông về tận khách sạn để đòi tranh luận.

"Tôi xin lỗi", Langdon nói, "nhưng tôi rất mệt và…".

"Mais monsieur" người trực khách sạn nằn nì, hạ thấp giọng xuống thành một tiếng thì thào khẩn thiết, "vị khách này là người rất quan trọng".

Langdon hơi nghi ngờ. Các cuốn sách của ông về tranh tôn giáo và ký tượng thờ cúng đã làm ông nổi danh trong giới nghệ thuật khiến mọi người miễn cưỡng phải công nhận ông và năm ngoái danh tiếng của Langdon đã tăng lên gấp trăm lần sau khi ông tham gia vào một sự kiện được công chúng biết đến rộng rãi ở Vatican. Từ đó, các nhà sử học và chuyên gia nghệ thuật tự cao tự đại nườm nượp kéo đến nhà ông không ngớt.

"Xin ông vui lòng", Langdon nói, cố gắng hết sức để giữ lịch sự "ghi lại tên và số điện thoại của vị khách đó, và nói với ông ta rằng tôi sẽ cố gắng gọi lại cho ông ta trước khi tôi rời Paris vào thứ ba. Cảm ơn ông". Ông gác máy trước khi người trực khách sạn kịp phản đối.

Lúc này Langdon đã ngồi dậy, ông cau mày nhìn cuốn Sổ tay liên hệ với khách có bìa ghi những lới huênh hoang: "Hãy ngủ như một hài nhi ở Kinh đô ánh sáng. Hãy liên hệ với khách sạn Ritz Paris". Ông quay đầu và nhìn một cách mệt mỏi vào tấm gương soi cả người ở đầu kia căn phòng. Người đàn ông đang nhìn ông là một người xa lạ - tóc tai rối bù và mệt mỏi.

Anh bạn cần một kỳ nghỉ đấy, Robert.

Năm làm việc vừa qua đã làm ông tiêu hao sức lực nặng nề, nhưng ông không khoái nhìn thấy bằng chứng của điều đó trong gương. Đôi mắt màu xanh thường ngày sắc sảo đêm nay có vẻ lờ đờ và mệt mỏi. Một lớp râu đen lởm chởm phủ kín quai hàm khỏe và cái cằm chẻ. Quanh thái dương, những sợi hoa râm đang tăng lên, thâm nhập sâu hơn vào mái tóc đen dày. Mặc dù các đồng nghiệp nữ một mực nói rằng tóc bạc chỉ làm tôn thêm sức quyến rũ bác học của ông, nhưng Langdon thừa biết là đâu phải thế.

Giá Boston Magazine nhìn thấy mình lúc này.
Tháng trước, Langdon rất bối rối khi tờ BostonMagazine xếp ông vào danh sách mười người đàn ông hấp dẫn nhất thành phố - một vinh dự đáng ngờ khiến ông trở thành mục tiêu trêu chọc không dứt của các đồng nghiệp ở trường Harvard. Tối nay, ở cách xa đất nước ba ngàn dặm, sự đề cao đó vẫn trở lại ám ảnh ông ngay trong buổi thuyết giảng ông vừa thực hiện.

"Thưa quý ông quý bà…", người giới thiệu tuyên bố trước thính phòng đầy ắp của Cung Dauphine trường Đại học Mỹ ở Paris. "Khách mời tối nay của chúng ta chắc tôi không cần giới thiệu. Ông là tác giả của nhiều cuốn sách: Hệ ký hiệu của các giáo phái bí mật, Nghệ thuật của dòng Chúa khai sáng, Ngôn ngữ tượng hình thất truyền, và khi tôi nói ông đã viết cuốn Khoa nghiên cứu thánh tượng và hình ảnh tôn giáo, là nói đúng theo nghĩa đen. Nhiều người trong số các bạn đang dùng những giáo trình của ông trên lớp".

Các sinh viên trong đám đông gật đầu nhiệt liệt tán thưởng.
"Tối nay tôi đã định giới thiệu ông bằng cách chia sẻ với các bạn lý lịch đầy ấn tượng của ông. Tuy nhiên…", cô ta tinh nghịch nhìn Langdon, lúc này ông đã ngồi trên sân khấu, "một khán giả vừa đưa cho tôi một lời gìới thiệu… có thể nói là… hấp dẫn hơn nhiều".

Cô ta giơ lên một số Boston Magazin.
Langdon co rúm người lại. Cô ta kiếm đâu ra cái của nợ này?
Người giới thiệu bắt đầu đọc những đoạn trích chọn lọc từ bài báo sáo rỗng kia và Langdon cảm thấy mình càng lúc càng lún sâu thêm trong ghế. Ba mươi giây sau, đám đông nhăn nhở cười và người phụ nữ kia không hề tỏ dấu hiệu muốn dừng lại:
"Và việc ông Langdon từ chối công bố vai trò đặc biệt của ông trong cuộc họp kín bầu Giáo hoàng ở Vatican năm ngoái chắc chắn sẽ ghi thêm điểm cho ông trên hấp-dẫn-kế của chúng ta".

Người giới thiệu kích động đám đông: "Các bạn có muốn nghe thêm không?".
Đám đông vỗ tay tán thưởng.

Ai đó hãy ngăn cô ta lại, Langdon thầm cầu xin khi cô ta lại đọc tiếp bài báo.
"Dù Giáo sư Langdon có thể không được xem là người đẹp trai tuyệt vời như một vài người được bầu chọn trẻ hơn, nhưng vị giáo sư ngoài bốn mươi tuổi này có cái gì đó ngoài phong độ học giả của ông. Vẻ ngoài quyến rũ của ông được tôn thêm bởi giọng nói trầm và âm nam trung hiếm có, điều mà các sinh viên nữ miêu tả là "ngọt như mía lùi".
Cả phòng cười phá lên.

Langdon cố gượng cười vụng về. Ông biết điều gì sẽ xảy ra tiếp theo - lại một tràng những câu lố bịch kiểu "Harrison Ford trong chiếc áo tuýt hiệu Harris" - và bởi vì tối nay ông mặc áo tuýt hiệu Harris và áo cao cổ hiệu Burberry, nên ông quyết định hành động.

"Cảm ơn, Monique". Langdon nói, vội vã đứng lên và đảy cô ta ra khỏi bục diễn đàn, "Boston Magazine quả có năng khiếu hư cấu". Ông quay về phía cử tọa với một tiếng thở dài bối rối.

"Và nếu tôi tìm ra ai trong số các bạn đã cung cấp bài báo đó, tôi sẽ bảo tổng lãnh sự trục xuất các bạn".

Đám đông cười rộ.
"Vậy thưa các bạn, như các bạn đã biết, tối nay tôi tới đây để nói về quyền năng của biểu tượng…".

Chuông điện thoại trong phòng khách sạn của Langdon một lần nữa lại phá tan im lặng.

Càu nhàu, bán tín bán nghi, ông nhấc máy: "Vâng?".
Quả nhiên, lại là người trực khách sạn: "Ông Langdon, một lần nữa xin lỗi ông. Tôi gọi để thông báo với ông rằng vị khách của ông bây giờ đang trên đường đến phòng ông. Tôi nghĩ là nên báo trước cho ông".
Langdon lúc này đã tỉnh hắn: "Ông cho phép ai đó đến phòng của tôi?".
"Tôi xin lỗi, thưa ông, nhưng một người như vậy…tôi không dám mạo quyền ngăn lại!".
"Chính xác thì ông ta là ai?".

Nhưng người trực khách sạn đã gác máy.
Gần như ngay lập tức, một nắm tay nặng nề đập cửa phòng Langdon thình thình.
Phân vân, Langdon tụt khỏi giường, cảm thấy những ngón chân nhấn sâu trên tấm thảm. Ông mặc áo choàng của khách sạn và đi tới cửa: "Ai?".
"Ông Langdon? Tôi cần nói chuyện với ông". Tiếng Anh của người này trọ trẹ - một giọng sủa gắt, hách dịch. "Tôi là trung uý Jérôme Collet. Direction Centrale Polici Judiciaire DCP.

Langdon dừng lại. Cục cảnh sát Pháp. Đại loại như FBI của Mỹ.

Vẫn để nguyên dây xích an toàn, Langdon hé cửa ra vài phân. Gương mặt đối diện ông mỏng và nhợt nhạt. Người đàn ông gầy khác thường này mặc một bộ đồng phục màu xanh chính quy.

"Tôi có thể vào được không?", viên cảnh sát hỏi.
Langdon do dự, cảm thấy không thoải mái khi đôi mắt xám của người lạ mặt nhìn ông chăm chú: "Chuyện này là thế nào?".

"Capitaine của tôi cần đến sự giám định của ông trong một vấn đề riêng tư".
"Ngay bây giờ?". Langdon hỏi. "Đã quá nửa đêm rồi".
"Ông có một buổi hẹn gặp mặt với ông phụ trách bảo tàng Louvre tối nay, đúng không?".
Langdon chợt cảm thấy bồn chồn. Ông và ông phụ trách bảo tàng đáng kính Jacques Saunière đã sắp xếp chương trình gặp nhau uống chút gì sau buổi thuyết giảng tối nay của ông, nhưng Saunière đã không đến. "Vâng. Làm thế nào mà ông biết chuyện đó?".
"Chúng tôi thấy tên ông trong sổ ghi công việc hàng ngày của ông ấy".
"Chắc không có gì bất ổn chứ?".

Viên cảnh sát buông một tiếng thở dài dễ sợ và luồn một tấm ảnh chụp lấy ngay Polaroid qua khe cửa hé mở.
Khi Langdon thấy tấm ảnh, toàn thân ông cứng sững.
"Tấm ảnh này được chụp cách đây chưa đầy một tiếng. Trong bảo tàng Louvre".
Khi Langdon nhìn kỹ hình ảnh kì quái đó, sự ghê tởm và choáng váng ban đầu nhường chỗ cho một cơn giận trào lên đột ngột: "Ai có thể làm chuyện này?".
"Chúng tôi hy vọng ông có thể giúp chúng tôi trả lời chính câu hỏi đó, bằng kiến thức của ông về khoa ký tượng học và việc ông định gặp ông ấy".

Langdon trân trân nhìn tấm ảnh, sự kinh tởm giờ đây hoà cùng nỗi sợ hãi. Hình ảnh khủng khiếp và quái lạ đó kèm theo một cảm giác bất an về một điều đã thấy ở đâu đó. Hơn một năm trước, Langdon nhận được tấm ảnh một xác chết và một lời đề nghị giúp đỡ tương tự. Hai mươi tư giờ sau, ông suýt mất mạng trong thành phố Vatican. Bức ảnh này hoàn toàn khác, tuy nhiên có một cái gì quen thuộc trong kịch bản khiến ông lo lo.

Viên cảnh sát nhìn đồng hồ: "Capitane của tôi đang chờ, thưa ông".
Langdon chỉ nghe thấy loáng thoáng. Mắt ông vẫn dán vào bức ảnh. "Cái biểu tượng này và cách đặt thi thể ông ấy thật kỳ lạ…".
"Vị trí?" Viên cảnh sát hỏi.

Langdon gật đầu, cảm thấy ớn lạnh khi ông ngẩng lên:
"Tôi không thể tưởng tượng là ai có thể làm việc này đối với người khác".

Viên cảnh sát có vẻ nghiêm nghị: "Ông không hiểu sao, ông Langdon. Những gì ông nhìn thấy trong bức ảnh này…", anh ta dừng lại, "Ông Saunière đã tự làm điều đó với chính mình".



Chú thích:
(4) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Nhưng thưa ông
(5) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Cục Cảnh sát tư pháp trung ương.
(6) Tiếng Pháp trong nguyên bản: đại úy


__________________

foureyes is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn
Đã có 4 thành viên gửi lời cám ơn đến foureyes vì bạn đã đăng bài:
bettyqi18 (21-10-2015), MyLove (31-10-2007), psydayDrype (25-10-2015), youngyn18 (25-04-2016)
Old 28-07-2006, 03:45 PM   #3
Hồ sơ
foureyes
Senior Member
 
foureyes's Avatar
 
Tham gia ngày: Nov 2004
Số bài viết: 682
Tiền: 25
Thanks: 18
Thanked 254 Times in 157 Posts
foureyes is an unknown quantity at this point
Default

Chương 2

Cách có một dặm, tên bạch tạng to con có tên Silas tập tễnh qua cổng trước của tòa nhà bằng đá xám sang trọng ở phố La Bruyère. Chiếc dây lưng hành xác bằng vải canh có ngạnh mà hắn quấn quanh bắp đùi cứa vào thịt hắn, nhưng tâm hồn hắn lại đang ca hát với niềm thỏa mãn với việc phụng sự Chúa.
Đau đớn là tốt.
Đôi mắt đỏ ngàu của hắn rà khắp sảnh khi hắn vào nhà. Vắng tanh. Hắn lặng lẽ lên cầu thang, không muốn đánh thức ai trong số bạn đồng môn. Cửa phòng ngủ của hắn mở, việc khóa cửa ở đây bị cấm. Hắn vào phòng, đóng cửa lại sau lưng.
Căn phòng rất đơn giản- sàn gỗ cứng, một cái tủ áo bằng gỗ thông, một cái chiếu vải bạt ở trong góc dùng làm giường ngủ.
Hắn là khách ở đây trong tuần này, nhưng nhiều năm nay, hắn có ân phước được ở một thánh đường tương tự ở New York City.
Chúa cho ta chỗ ở và lẽ sống cho cuộc đời ta.
Cuối cùng, tối nay, Silas cũng cảm thấy bắt đầu đễn đáp được món nợ đó. Hối hả chạy đến tủ áo, hắn tìm chiếc điện thoại di động giấu dưới ngăn đáy và bấm số gọi.
"Hử?" Một giọng đàn ông trả lời.
"Trình Thầy, con đã trở về".
"Nói đi", giọng nói kia ra lệnh, có vẻ hài lòng khi nghe hắn nói.
"Cả bốn đều đã chết. Ba pháp quan… và cả Đại sứ".
Giọng nói ngừng lại trong chốc lát, như để cầu nguyện: "Vậy ta chắc ngươi đã lấy được thông tin?".
"Cả bốn đều nói giống nhau. Riêng rẽ từng người".
"Và ngươi tin chúng?".
"Họ nói y hệt nhau nên không thể là sự trùng hợp ngẫu nhiên".
Một nhịp thở phấn khích: "Tuyệt. Hội kín này nổi tiếng là kiên định bảo vệ bí mật, ta đã lo chúng nêu cao tinh thần ấy".
"Cái chết kề cổ là một động cơ mạnh mẽ buộc họ phải nói ra".
"Vậy thì, học trò của ta, hãy nói những gì ta cần phải biết".
Silas biết những thông tin hắn lượm đưọc từ những nạn nhân của hắn sẽ là một cú sốc: "Thưa Thầy, cả bốn đều khẳng định sự tồn tại của viên đá đỉnh vòm… viên đá đỉnh vòm trong truyền thuyết".
Hăn nghe thấy tiếng hít sâu bên kia đầu dây và có thể cảm thấy sự phấn khích của Thầy: "Viên đá đỉnh vòm. Đúng như chúng ta đã ngờ ngợ".
Theo truyền thuyết, hội kín này đã tạo ra một bản đồ bằng đá - một viên đá đỉnh vòm - và khắc vào đó bảng chỉ dẫn tới vị trí cuối cùng của bí mật lớn nhất của tổ chức… thông tin này có quyền lực lớn đến mức sự bảo vệ nó chính là lý do tồn tại của hội.
"Khi chúng ta có được viên đá đỉnh vòm". Thầy Giáo nói, "thì chỉ còn cách bí mật đó một bước".
"Chúng ta đang ở gần hơn Thầy nghĩ đấy ạ. Viên đá đỉnh vòm đó ở đây, tại Paris này".
"Tại Paris? Thật không thể tin được. Vậy thì quá dễ".
Silas lần lượt kể lại những sự kiện hồi đầu buổi tối… cả bốn nạn nhân của hắn, ít phút trước khi chết, đã cố gắng tuyệt vọng như thế nào để hòng giữ cái mạng sống vô đạo lý của họ bằng cách nói ra bí mật. Mỗi người đều khai với Silas cùng một điều y hệt nhau - rằng viên đá đỉnh vòm đã được giấu khéo léo ở một vị trí trong một nhà thờ cổ của Paris- Nhà thờ Saint- Sulpice.
"Bên trong một ngôi nhà của Chúa", Thầy Giáo la lên, "Chúng giễu chúng ta làm sao!".
"Như chúng đã làm thế từ nhiều thế kỷ nay".
Thầy Giáo im lặng như để niềm đắc thắng của giây phút này tràn ngập mình. Cuối cùng, ông ta nói: "Con đã làm một việc lớn phụng sự Chúa. Chúng ta đã chờ đợi điều này nhiều thế kỷ. Con phải lấy lại viên đá đó cho ta. Ngay lập tức. Đêm nay.
"Con biết số tiền thưởng rồi đấy".
Silas biết số tiền thưởng nhiều không đếm xuể, tuy nhiên điều Thầy Giáo ra lệnh có vẻ là bất khả thi. "Nhưng nhà thờ đó là một pháo đài, nhất là vào ban đêm. Con sẽ vào bằng cách nào?".
Với giọng tự tin của một người có thế lực lớn, Thầy Giáo giảng giải những việc phải làm.
Khi Silas gác máy, da hắn râm ran đợi.
Một giờ, hắn tự bao, thầm cảm ơn Thầy đã cho hắn thời gian để thực hiện sự sám hối cần thiết trước khi bước vào một ngôi nhà của Chúa. Mình phải gột rửa linh hồn khỏi những tội lỗi của ngày hôm nay. Những tội lỗi hắn phạm phải trong ngày hôm nay có mục đích thiêng liêng. Người ta đã phạm những hành động chiến tranh trong nhiều thế kỷ để chống lại kẻ thù của Chúa.
Sự tha thứ đã được đảm bảo.
Mặc dù thế, Silas biết sự miễn xá đòi hỏi hy sinh.
Kéo rèm che, hắn cời quần áo và quỳ xuống giữa phòng.
Nhìn xuống, hắn kiểm tra chiếc dây lưng hành xác cột quanh bắp đùi. Tất cả những môn đồ chân chính theo Đạo đều mang vật này- một dây da có găm những ngạnh kim loại sắc cứa vào thịt như một nhắc nhở thường xuyên về khổ đau của Chúa. Sự đau đớn gây ra bởi vật này cũng giúp họ chống lại những dục vọng về xác thịt.
Mặc dù Silas đã đeo vật này lâu hơn yêu cầu hai tiếng, hắn biết hôm nay không phải là một ngày bình thường. Nắm lấy chiếc khóa. hắn xiết chặt nó lại thêm mộl nấc nữa, nhăn mặt khi những ngạnh sắc đâm sâu hơn vào da thịt. Thở ra từ từ, hắn khoan khoái tiếp nhận lễ thức thanh lọc bằng đau đớn.
Đau đớn là tốt. Silas thì thầm, nhắc lại những lời thiêng liêng của Cha Josemaria Escrivá - Người Thầy của mọi Thầy. Dù Escrivá đã chết năm 1975, minh triết của ông vẫn sống mãi, những lời của ông vẫn được hàng nghìn tôi tớ trung thành của Chúa trên toàn thế giới nhắc tới khi họ quỳ gối trên sàn để thực hành cái thông lệ thiêng liêng gọi là "tự hành xác".
Silas chuyển sự chú ý đến sợi dây thừng to thắt nút cuộn gọn gàng đặt trên sàn bên cạnh. Kỷ luật. Những nút thắt bết máu khô.
Khao khát được thấy tác dụng gột rửa của nỗi đau đớn của chính mình. Silas đọc nhanh một lới cầu nguyện. Sau đó, nắm chặt một đầu sợi dây, hắn nhắm mắt và vung sợi dây qua vai, cảm nhận những nút thắt quất mạnh vào lưng. Hắn lại giật nó qua vai, quất mạnh vào thịt hắn. Giật đi, giật lại! cứ thế hắn quất hoài.
Castigo corpus meum
Cuối cùng, hắn cảm thấy máu bắt đầu chảy.


Chú thích:
(1) Tiếng La-tinh: Trừng phạt thân thể tôi, tự hành xác



Chương 3


Không khí khô hanh tháng tư táp qua cửa xe để mở cửa chiếc Citroen ZX khi nó theo hướng Nam qua Nhà hát ôpêra và Quảng trường Vendôme. Ngồi ở ghế cạnh ghế tài xế, Langdon cảm thấy thành phố vùn vụt qua trong khi ông cố soạn lại ý nghĩ của mình cho rành rọt tỏ tường. Sau khi tắm và cạo râu ù một cái, nom ông đã tương đối bảnh, nhưng trong lòng vẫn không nguôi lo lắng. Những hình ảnh đáng sợ về thi thể của ông phụ trách bảo tàng vẫn chốt lại trong tâm trí ông.
Jacques Saunière đã chết.
Langdon không khỏi cảm thấy sâu sắc sự mất mát to lớn với cái chết của người phụ trách bảo tàng. Mặc dù Saumère có tiếng là ưa biệt lập, nhưng sự công nhận đối với lòng tận tụy vì nghệ thuật của ông đã khiến ông được kính yêu. Những cuốn sách của ông về những mật mã bí mật ẩn chứa trong những bức họa của Poussin và Teniers nằm trong số những giáo trình ưa thích của Langdon.
Cuộc gặp mặt tối nay là điều mà Langdon rất mong đợi, và ông đã rất thất vọng khi ông phụ trách bảo tàng không xuất hiện.
Một lần nữa hình ảnh thi thể của người phụ trách bảo tàng vụt hiện lên trong tâm trí ông. Jacques Saunière đã làm điều đó với chính mình sao? Langdon quay đầu và nhìn qua cửa xe, cố xua hình ảnh đó ra khỏi tâm trí.
Bên ngoài, thành phố đang ngơi nghỉ - những người bán hàng rong đang đẩy những chiếc xe chở hạnh đào ướp đường, các bồi bàn mang bao rác ra vỉa hè, một đôi tình nhân ấp ủ nhau để giữ ấm trong gió nhẹ hòa quyện với hương hoa nhài.
Chiếc Citroen uy nghi đi giữa hỗn độn, tiếng còi hai âm chối tai sẻ đôi dòng xe cộ như một lưỡi dao.
"Capitaine rất hài lòng khi biết ông vẫn còn ở Paris tối nay", viên cảnh sát nói, lần đầu tiên mở lời kể từ lúc họ rời khách sạn. "Một sự trùng hợp may mắn".
Langdon tuyệt nhiên không hề cảm thấy may mắn, và sự trùng hợp là một khái niệm mà ông không hoàn toàn tin tưởng.
Là một người dành cả đời để khảo sát tính tương liên tàng ẩn giữa những biểu tượng và ý thức hệ khác hẩn nhau, Langdon xem thế giới như một mạng lưới bện xoắn những lịch sử và sự kiện một cách sâu sắc. Những mối liên hệ có thể là vô hình, ông thường hay giảng vậy cho các lớp khoa ký tượng học tại trường Harvard, nhưng chúng luôn ở đó, lấp ngay dưới bề mặt "Tôi đoán". Langdon nói, "rằng Trường Đại học Mỹ ở Paris đã nói cho các ông biết chỗ tôi đang ở".
Người lái xe lắc đầu: "Interpol".
Interpol (Cảnh sát quốc tế), Langdon nghĩ thầm. Tất nhiên rồi. ông đã quên mất rằng yêu cầu có vẻ vô hại của tất cả các khách sạn châu Âu đòi xem hộ chiếu khi nhận phòng còn quan trọng hơn một thủ tục kỳ quái - nó là luật. Vào bất kỳ buổi tối nào, trên toàn châu Âu, các quan chức Interpol có thể định vị chính xác ai đang ngủ ở đâu. Việc tìm ra Langdon ở khách sạn Ritz chắc chắn chỉ mất năm giây.
Khi chiếc Citroen tăng tốc độ hướng về phía Nam thành phố, mặt nghiêng sáng rực của tháp Eifíel hiện ra, đâm thẳng lên trời ở phía bên phải. Thấy nó, Langdon nghĩ tới Vittoria, chợt nhớ lời hứa hẹn vui giữa hai người một năm trước rằng cứ sáu tháng một lần, họ sẽ gặp lại nhau tại một địa điểm lãng mạn khác nhau trên thế giới. Tháp Eiffel, Langdon nghĩ, có thể cũng nằm trong danh sách của họ. Buồn thay, lần cuối cùng ông hôn Vittoria là ở một sân bay náo nhiệt tại Roma cách đây hơn một năm.
"Ông đã trèo lên bụng nó chưa?", viên cảnh sát liếc mắt hỏi.
Langdon ngước lên, chắc chắn là mình đã hiểu lầm . "Xin lỗi, tôi nghe chưa rõ?".
"Đẹp tuyệt vời phải không?" Viên cảnh sát hất hàm qua kính chắn gió về phía tháp Eiffel. "Ông đã từng leo lên đó chưa?".
Langdon đảo mắt: "Chưa, tôi chưa từng trèo lên tháp".
"Đó là biểu tượng của nước Pháp. Tôi nghĩ nó thật hoàn hảo".
Langdon lơ đãng gật đầu. Các nhà ký tượng học thường nhận xét rằng Pháp - một đất nước nổi tiếng về thói tự đắc với cái chất đàn ông của mình, về thói giăng hoa và về những lãnh tụ tướng ngũ đoản như Napoléon và Pepin Lùn - ắt không thể chọn một biểu tượng quốc gia nào thích hợp hơn một cái dương vật cao cả ngàn mét.
Khi họ tới ngã tư phố Rivoli, đèn giao thông bật đỏ, nhưng chiếc Citroen không đi chậm lại. Viên cảnh sát nhấn ga cho chiếc xe nhỏ vọt qua ngã tư và tăng tốc đi vào khu vực nhiều cây cối của phố Castiglion, lối vào phía Bắc của Vườn Tuileries nổi tiếng - một thứ Central Park của Paris. Hầu hết khách du lịch đều dịch nhầm cụm từ Jardil des tuileries là có liên quan đến cảnh hàng nghìn bông hoa tulip nở rộ ở đây, nhưng thực tế Tuileries liên quan đến một vài điều ít lãng mạn hơn nhiều.
Công viên này từng là một cái hố mênh mông, rất ô nhiễm mà từ nó, các nhà thầu khoán ở Paris đã đào đất sét để sản xuất những viên ngói đỏ nổi tiếng của thành phố, gọi là tuiles.
Khi vào trong công viên trống vắng, viên cảnh sát với tay xuống dưới bảng điều khiển, tắt cái còi đang rú ầm ĩ. Langdon thở phào, thưởng thức sự im lặng đột ngột. Bên ngoài chiếc xe, ánh sáng nhạt của những ngọn đèn pha halôgien lướt trên con đường rải sỏi vụn, tiếng lốp xe nghiến lạo xạo thành một nhịp ru ngủ. Langdon luôn coi khu vườn này như một nơi linh thiêng. Đây là khu vườn mà Claude Monet đã thể nghiệm khối hình và màu sắc, và thực sự truyền cảm hứng cho sự ra đời của trào lưu ấn tượng chủ nghĩa. Tối nay, tuy nhiên, chỗ này lại mang một hào quang khác thường của điềm gở.
Chiếc Citroen lúc này rẽ trái, chếch hướng tây, xuôi đại lộ trung tâm của công viên. Đang chạy quanh một cái hồ hình tròn, người lái xe cắt ngang qua một đại lộ vắng vẻ và đi vào một cái sân vuông rộng mở ra bên ngoài. Langdon giờ đây có thể nhìn thấy chỗ cuối của Vườn Tuileries, đánh dấu bởi một cổng tò vò lớn bằng đá gọi là Arc du Carrousel.
Mặc dù những lễ thức truy hoan đã từng được tổ chức ở Arc du Carrousel, những người hâm mộ nghệ thuật sùng kính nơi này vì một lý do hoàn toàn khác. Từ nơi dạo mát ở cuối Vườn Tuilenes, người ta có thể nhìn thấy bốn trong số những bảo tàng nghệ thuật tuyệt với nhất trên thế giới… ở bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc.
Nhìn ra ngoài cửa xe bên phải, theo hướng nam bên kia sông Seine và Bến Voltaire, Langdon có thể thấy mặt ngoài sáng trưng của nhà ga xe lửa cũ - nay là Bảo tàng Orsay sang quý.
Đưa mắt sang trái, Langdon có thể thấy đỉnh của Trung tâm Pompidou tối tân, là nơi đặt Bảo tàng nghệ thuật hiện đại.
Đằng sau ông về phía tây, Langdon biết đó là đài tưởng niệm cổ xưa của Ramses vươn lên trên cây cối, đánh dấu chỗ của Bảo tàng Jeu de Paume.
Thẳng trước mặt, về hướng Đông, qua cái cổng tò vò, Langdon có thể nhìn thấy tòa lâu đài kiểu Phục Hưng làm bằng đá nguyên khối giờ đây đã trở thành một trong những lâu đài nghệ thuật nổi tiếng nhất trên thế giới.
Bảo tàng Louvre.
Langdon cảm thấy một thoáng ngỡ ngàng thường thấy khi mắt ông cố gắng tột bậc vẫn không bao quál hết toàn bộ khối nhà đồ sộ. Bên kia một plaza rộng mênh mông, mặt tiền uy nghi của Louvre vút lên như một tòa thành trên nền trời Paris.
Được tạo hình như một cái móng ngựa khổng lồ, Bảo tàng Louvre là tòa nhà dài nhất châu Âu, dài hơn ba cái tháp Eiffel nối liền với nhau. Thậm chí, cả mười vạn mét vuông diện tích của cái plaza nằm giữa hai cánh của tòa nhà cũng không đọ nổi sự bề thế của chiều ngang tòa nhà. Langdon đã từng đi bộ quanh toàn bộ Louvre, một chuyến đi dài ba dặm đầy thú vị.
Mặc dù, theo ước tính, một khách thăm quan phải mất khoảng năm tuần mới chiêm ngưỡng hết toàn bộ 65.500 tác phẩm nghệ thuật trong tòa nhà này, phần lớn du khách đều chọn con đường rút ngắn mà Langdon gọi là "Louvre thu nhỏ" - một cuộc chạy nước rút qua bảo tàng để ngắm ba kiệt tác nổi tiếng nhất: Nàng Mona Lisa, Thần Vệ nữ Milo, Thần chiến thắng có cánh. Art Buchard từng khoe khoang rằng ông ta đã xem cả ba kiệt tác đó trong vòng năm phút năm mươi sáu giây.
Người lái xe lôi ra chiếc máy bộ đàm cầm tay và nói bằng tiếng Pháp rất nhanh: "Monsieur Langdon esl arrivé. Deux minutes" .
Đáp lại là một câu xác nhận lạo xạo nghe không rõ.
Viên cảnh sát cất máy, quay sang Langdon: "Ông sẽ gặp capitaine ở lối vào chính".
Người lái xe không đếm xỉa đến những biển báo cấm ô-tô đi trên plaza, cứ rồ ga, và phóng chiếc Citroen qua lề đường. Lối vào chính của bảo tàng Louvre bây giờ đã có thể nhìn thấy, sừng sững ở đằng xa, với bảy hồ nước hình tam giác bao quanh, từ đó vọt lên những vòi phun lung linh ánh sáng.
Kinh đô ánh sáng Lối vào mới của bảo tàng Louvre Paris cũng trở nên nổi tiếng gần như chính bảo tàng vậy. Kim tự tháp bằng kính theo lối hiện đại và gây nhiều tranh cãi do kiến trúc sư người Mỹ gốc Hoa I. M. Pei thiết kế vẫn còn bị các vị bảo vệ truyền thống bỉ báng, họ cảm thấy nó phá hủy vẻ trang nghiêm của cái sân theo phong cách Phục Hưng. Cloethe đã miêu tả kiến trúc như là âm nhạc ngưng đọng, và những người chỉ trích Pei miêu tả Kim tự tháp này như những móng tay trên cái bảng đen. Tuy nhiên, những người ngưỡng mộ tiến bộ, thì ca ngợi Kim tự tháp trong suốt cao 24 mét như một sự kết hợp gây sửng sốt giữa kiến trúc cổ điển và phương pháp hiện đại - một mối liên kết tượng trưng giữa cái cũ và cái mới - góp phần đưa bảo tàng Louvre vào thiên niên kỷ mới.
"Ông có thích Kim tự tháp của chúng tôi không?". Viên cảnh sát hỏi.
Langdon cau mày. Người Pháp có vẻ như thích hỏi người Mỹ câu hỏi này. Tất nhiên đó là một câu hỏi đầy hàm ý. Thừa nhận là mình thích cái Kim tự tháp đó sẽ biến bạn trở thành người Mỹ vô vị, còn nói không thích thì là một sự lăng mạ đối với người Pháp.
"Tổng thống Mitterrand là một người bạo gan", Langdon đáp đánh bài trung dung. "Người ta bảo vị cựu tổng thống Pháp người đã đặt làm Kim tự tháp này - bị mắc cái "mặc cảm Pharaông". Một mình gánh trách nhiệm làm cho Paris tràn ngập những bia tưởng niệm, nghệ thuật và đồ tạo tác Ai Cập, Francois Mitterrand mê thích văn hóa Ai Cập cuồng nhiệt đến nỗi người Pháp đến giờ vẫn còn gọi ông là Nhân Sư.
"Tên ông đại úy là gì nhỉ?", Langdon hỏi, chuyển đề tài.
"Bezu Fache", người lái xe nói, đi về phía lối vào chính của Kim tự tháp. "Chúng tôi gọi ông ấy là Bò mộng".
Langdon liếc nhìn anh ta, tự hỏi liệu có phải mỗi người Pháp đều có một biệt danh đặt theo tên các con vật huyền bí không:
"Ông gọi capitaine là Bò mộng sao?".
Người kia nhướn mày: "Tiếng Pháp của ông khá hơn là ông tự nhận đấy, thưa ông Langdon".
Tiếng Pháp của tôi rất tệ, Langdon nghĩ thầm, nhưng hiểu biết về các hình vẽ miêu tả cung hoàng đọo của tôi thì khá tốt. Chòm sao Taurus bao giờ cũng được tượng hình bằng con bò đực. Thuật chiêm tinh luôn là một hằng số tượng trưng khắp thế giới.
Viên cảnh sát dừng xe và chỉ giữa hai đài phun nước một cánh cửa lớn ở mé Kim tự tháp: "Đó là lối vào. Chúc may mắn, thưa quý ông".
"Ông không cùng đi sao?".
"Tôi được lệnh để ông lại đây. Tôi có nhiệm vụ khác để làm".
Langdon thở dài và ra khỏi xe. Đó là trò chơi của các ông mà.
Viên cảnh sát rồ ga và phóng đi.
Khi Langdon đứng một mình và nhìn những đèn hậu xe xa dần, ông nhận ra rằng ông có thể dễ dàng suy xét lại, rời khỏi cái sân này, bắt một chiếc taxi và đi thẳng về lên giường đi ngủ.
Một điều gì đó nói với ông rằng đó là một ý chẳng hay ho gì.
Đi về phía đám sương của đài phun nước, Langdon có một cảm giác lo lắng như thể ông đang bước qua một cái ngưỡng ảo để vào một thế giới khác. Cái tính chất như mơ của buổi tối nay lại vây lấy ông. Hai mươi phút trước ông đang ngủ trong phòng khách sạn. Giờ đây ông đang đứng trước một Kim tự tháp trong suốt do Nhân Sư xây nên, chờ một tay cảnh sát mà người ta gọi là Bò mộng.
Mình bị mắc kẹt trong một bức calvador Dali , ông nghĩ.
Langdon đi thẳng tới lối vào chính - một cánh cửa quay đồ sộ. Phòng chờ bên ngoài sáng lờ mờ và vắng vẻ.
Mình có phải gõ cửa không nhỉ?
Langdon tự hỏi không biết đã có nhà Ai Cập học tôn kính nào của Harvard gõ cửa một Kim tự tháp và chớ đợi sự đáp lại chưa. Ông giơ tay toan đập vào tấm kính, nhưng từ trong bóng tối phía dưới, một người đã xuất hiện, chạy lên chiếc cầu thang cong. Người chắc nịch và da sậm, gần giống như người Neanderthal, mặc chiếc áo vét cài chéo màu tối căng ra ôm chặt lấy đôi vai rộng. Dáng đi của ông ta trên đôi chân mập lùn, lực lưỡng rõ ra là người có uy quyền. Ông ta đang nói chuyện điện thoại di động nhưng kết thúc cuộc gọi ngay khi tới nơi. Ông ra hiệu mười Langdon vào.
"Tôi là Bezu Fache", ông ta tuyên bố khi Langdon qua cánh cửa quay, "Đại uý của Cục Cảnh sát tư pháp trung ương". Giọng ông ta thật phù hợp - một thứ âm cổ họng ì ầm… như trời sắp có giông.
Langdon giơ tay ra bắt: "Robert Langdon".
Bàn tay kếch xù của Fache bao lấy tay Langdon với sức mạnh như nghiền nát.
"Tôi đã xem tấm ảnh", Langdon nói. "Nhân viên của ông nói rằng Jacques Saunière đã làm việc đó…".
"Ông Langdon", đôi mắt đen như gỗ mun của Fache nhìn như xoáy vào da thịt, "Điều ông nhìn thấy trong ảnh chỉ là khởi đầu của những gì ông Saunière đã làm".


Chú thích:
(1) Viên cảnh sát nói "mounted her". Động từ "to mount"ngoài nghĩa trèo lên còn có nghĩa tục chỉ sự ăn nằm với đàn bà. Trong tiếng Anh, để chỉ con vật hoặc đồ vật ở số ít, thông thưởng người ta dùng đại từ trung tính it, nhưng thảng hoặc, đối với súc vật hay đồ vật thân thiết, đôi khi người ta dùng đại từ giống cái số ít her để tỏ ý âu yếm. Câu nói của viên cảnh sát nằm trong trường hợp này. Vì Langdon đang nghĩ tới Vittoria, người tình của mình, nên rất có thể hiểu chữ "mounted" theo nghĩa tục. Khi dịch sang tiếng Việt, hầu như không thể chuyển tál được nét tinh tế ngôn ngữ này.
(2) Một trong những họa sĩ cha đẻ của chủ nghĩa ấn tượng Pháp.
(3) Bãi trống rộng, quảng trường.
(4) Trong nguyên bản là một triệu feet vuông (hệ đo lường Anh). chúng tôi chuyển sang hệ mét quen thuộc với độc giả Việt nam hơn, để dễ hình dung hơn. Sau đây, chúng tôi cũng sẽ làm thế với những chỗ dùng đơn vị đo lường Anh.
(5) Ông Langdon đã tới. Hai phút.
(6) Hoạ sĩ siêu thực nổi tiếng của Tây Ban Nha (1904 - 1988)




Chương 4

Đại uý Bezu Fachequả có phong thái của một con bò đang cơn giận với bờ vai rộng ngửa về phía sau và cái cằm ấn chặt vào ngực. Mái tóc đen chuốt dầu bóng càng làm nổi bật đường ngôi thẳng như mũi tên chia đôi cái trán dô ra phía trước như mũi chiến hạm. Khi ông dấn bước, đôi mắt đen dường như thiêu đốt mặt đất phía trước, tỏa ánh rực lửa, báo trước tmh cách nghiêm khắc không khoan nhượng nổi tiếng của ông trong mọi vấn đề.
Langdon theo viên đại uý xuống chiếc cầu thang cẩm thạch nổi tiếng đi vào lòng nhà hõm sâu bên dưới Kim tự tháp bằng kính. Trên đường đi xuống, họ qua giữa hai vệ binh của Cục Cảnh sát tư pháp lăm lăm súng máy. Thông điệp rất rõ ràng: Không ai có thể ra vào tối nay mà không có sự cho phép của đại uý Fache.
Xuống dưới sâu hơn mặt đất, Langdon phải cố dẹp một cơn run đang dâng lên. Sự hiện diện của Fache không có chút gì là nồng nhiệt, và vào giờ phút này, bản thân bảo tàng Louvre cũng nhuốm một màu gần như tang tóc. Cầu thang, tựa lối đi trong một rạp chiếu bóng tối om, chỉ có đèn gắn ở mỗi bậc chiếu sáng lờ mờ. Langdon có thể nghe thấy tiếng chân của chính mình dội lại từ tấm kính trên đầu. Ngước lên, ông có thể nhìn thấy những làn sương tử những vòi phun nước tan dần phía bên ngoài mái nhà trong suốt.
"Ông thấy có được không?" Fache hỏi, hất cái cằm rộng về phía trên.
Langdon thờ dài, quá mệt mỏi để chơi trò đánh đố: "Vâng, Kim tự tháp của các ông thật lộng lẫy.
Fache lầm bầm: "Một cái sẹo trên bộ mặt Paris".
Lạ đấy. Langdon có cảm nhận vị chủ nhân này là người khó có thể làm vừa lòng. Ông tự hỏi liệu Fache có biết rằng Kim tự tháp này, theo yêu cầu rõ ràng của tổng thống Mitterrand, đã được xây dựng bằng đúng 666 tấm kính - một yêu cầu kỳ quái luôn là chủ đề tranh luận nóng bỏng trong các chuyên gia, họ cho rằng con số 666 là số của quỷ Satan.
Langdon quyết định không nói điều ấy ra.
Khi họ đi xa hơn vào phòng chờ dưới đất, khoảng không rộng mở từ từ hìện ra từ trong bóng tối. Nằm dưới mặt đất 19 mét, đại sảnh rộng khoảng 7.600 mét vuông mới xây dựng của bảo tàng Louvre trải ra như một cái hang bất tận. Được xây bằng đá cẩm thạch màu vàng nâu ấm áp để tương hợp với đá màu mật ong của mặt tiền bên trên, đại sảnh dưởi mặt đất thường rung lên bởi ánh sáng mặt trời và khách du lịch. Tuy nhiên, tối nay, sảnh trống rỗng và tối tăm, khíến cho toàn bộ đắm trong một không khí lạnh lẽo tựa như hầm mộ.
"Còn đội báo vệ thường trực của bảo tàng thì sao?", Langdon hỏi.
"En quarantaine" . Fache đáp, cứ như thể Langdon đang nghi ngờ tính chính trực của đội ông ta. "Hiển nhiên là đã có kẻ đột nhập. Tất cả những người canh đêm ở Louvre bên cánh Sully đều đang bị thẩm vấn. Việc đảm bảo an ninh buối tối nay cho bảo tàng được chuyển giao cho các nhân viên của tôi".
Langdon gật đầu, đi nhanh để theo kịp Fache.
"Ông biết Jacques Saunière đến mức nào?" Viên đại úy hỏi.
"Thực ra là chẳng mấy tí. Chúng tôi chưa từng gặp nhau".
Fache có vẻ ngạc nhiên: "Tối nay mới là buổi hẹn gặp đầu tiên ư?".
"Vâng. Chúng tôi dự định gặp nhau tại buổi chiêu đãi của trường Đại học Mỹ sau bài giảng của tôi nhưng không thấy ông ấy tới".
Fache ghi nguệch ngoạc vài dòng vào một cuốn sổ nhỏ. Khi họ đi tiếp, Langdon thoáng thấy khối Kim tự tháp ít nổi tiếng hơn của bảo tàng Louvre - Kim tự tháp đảo ngược - một cửa mái khổng lồ lộn ngược rủ xuống từ trên trần tựa một thạch nhũ ở khu vực kế đó. Fache dẫn Langdon đi lên một vài bậc thang đến cửa một hành lang có khung vòm, phía trên có biển đề dòng chữ: DENON. Cánh Denon là phần nổi tiếng nhất trong ba phần chính của Louvre.
"Ai là người yêu cầu có cuộc gặp mặt tối nay?" Fache đột ngột hỏi. "Ông hay ông ấy?".
Câu hỏi có vẻ kỳ lạ. "Ông Saunière", Langdon đáp khi họ vào đường hầm. "Thư ký của ông ấy đã liên lạc với tôi vài tuần trước bằng thư điện tử. Cô ấy nói rằng ông phụ trách bảo tàng biết tôi sẽ thuyết giảng ở Paris tháng này và muốn bàn chuyện gì đó với tôi trong khi tôi ở đây".
"Bàn chuyện gì?".
"Tôi không biết. Chắc là về nghệ thuật. Chúng tôi có cùng mối quan tâm".
Fache có vẻ không tin: "Ông không hề biết cuộc gặp của các ông nhằm việc gì?".
Langdon không biết. Lúc đầu ông cũng tò mò nhưng thấy không tiện hỏi cụ thể. Tôn ông Jacques Saunière nổi tiếng là thích sự riêng tư và rất ít khi cho ai gặp, chỉ riêng việc có cơ hội gặp ông cũng đủ khiến Langdon phải cảm ơn rồi.
"Ông Langdon, chí ít ông có thể đoán xem nạn nhân bị giết của chúng ta có thể muốn bàn luận gì với ông vào cái đêm ông ấy bị giết chứ? Điều đó có thể sẽ rất có ích".
Sự thẳng thừng của câu hỏi đó làm cho Langdon cảm thấy không thoải mái.
"Tôi thực sự không thể đoán được. Tôi đã không hỏi. Tôi cảm thấy vinh dự được tiếp xúc với ông ấy. Tôi là người ngưỡng mộ công trình của ông Saunière. Tôi thường dùng các bài viết của ông ấy trên lớp".
Fache ghi điều đó vào sổ.
Hai người đã đi được nửa đường hầm dẫn vào cánh Denon và Langdon có thể nhìn lhấy những cầu thang cuốn kép đôi ở phía xa, cả hai bên lên, xuống đều đứng im.
"Vậy là ông có cùng những mối quan tâm với ông ấy?" Fache hỏi.
"Vâng, trên thực tế, năm ngoái tôi đã dành nhiều thời gian soạn thảo một cuốn sách bàn về lĩnh vực giám định chủ yếu của ông Saunière. Tôi mong sao lượm lặt dược chút tri thức của ông ấy".
Fache ngước mắt: "Gì cơ?".
Rõ ràng ông ta không hiểu câu thành ngữ?
"Tôi mong sao học hỏi những suy nghĩ của ông ấy về đề tài này".
"Tôi hiểu. Và đề tài đó là gì?".
Langdon do dự, không biết diễn tả như thế nào cho chính xác: "Về cơ bản, bản thảo viết về khoa nghiên cứu các hình tượng thờ nữ thần - khái niệm về tính thánh nữ và nghệ thuật cùng những biểu tượng gắn kết với nó".
Fache giơ bàn tay mập ú vuốt tóc: "Và Saunière rành về đề tài này?".
"Không ai hơn ông ấy".
"Tôi hiểu".
Langdon cảm thấy Fache chẳng hiểu gì hết. Jacques Saunière đuợc xem là nhà mô tả các hình tượng về nữ thần hàng đầu trên thế giới. Saumère không chỉ có niềm đam mê cá nhân đối với những thánh tích có liên quan đến sự phồn thực, các nghi lễ cúng tế nữ thần, Wicca và lính nữ linh thiêng, mà trong suốt hai mươi năm phụ trách bảo tàng! Saunière đã giúp Louvre tập hợp được bộ sưu tập nghệ thuật nữ thần lớn nhất thế giới - những cái rìu của các nữ tu ở những điện thờ cổ xưa nhất của Hy Lạp ở Delphi, những cây quyền trượng bằng vàng, hàng trăm thập giá hình khóa giống như những thiên thần nhỏ của vùngTjet, những chiếc trống lắc được sử dụng ở Ai Cập cổ đại để xua đuổi tà ma, và một bộ tượng kỳ thú miêu tả cảnh Horus được nữ thần Isis cho bú.
"Có lẽ Jacques Saunière nghe nói về bản thảo của ông?".
Fache gợi ý. "Và ông ấy sắp đặt cuộc gặp gở để đề nghị giúp đỡ cho cuốn sách của ông".
Langdon lắc đầu: "Thực sự, chưa ai biết về bản thảo này. Nó vẫn ở dạng nháp, và tôi không đưa nó cho bất kỳ ai trừ người biên tập của tôi".
Fache im lặng.
Langdon không nói thêm lý do khiến ông chưa cho ai xem tập bản thảo. Bản nháp dày ba trăm trang - tạm đặt tên là Những biểu tượng của tính nữ thiêng liêng bị thất truyền - đưa ra một số diễn giải rất khác thường về hệ hình tượng tôn giáo đã chế định, những diễn giải chắc chắn sẽ gây tranh cãi.
Khi Langdon đi gần đến chiếc cầu thang cuốn vẫn đứng im, ông dừng lại, nhận thấy Fache không còn ở bên cạnh mình.
Quay lại, Langdon nhìn thấy Fache đang đứng cách đó vài mét về phía sau ở chỗ thang máy dành cho người phục vụ.
"Ta sẽ đi thang máy", Fache nói khi cửa thang máy mở ra.
"Tôi chắc ông biết Hành Lang Lớn khá xa nếu đi bộ".
Tuy Langdon biết đi thang máy lên hai tầng dài để đến Cánh Denon sẽ nhanh hơn, ông vẫn đứng im.
"Có chuyện gì không ổn?" Eache giữ cửa, có vẻ sốt ruột.
Langdon thở hắt ra, quay lại nhìn đầy thèm muốn về phía cầu thang cuốn ngoài trời. Chẳng có chuyện gì không ổn cả, ông tự dối mình, lụi hụi trở lại thang máy. Hồi bé, Langdon đã ngã xuống một cái giếng bỏ đi và suýt chết vì ngâm nước trong cái khoảng hẹp đó nhiều giờ trước khi có người đến cứu.
Kể từ đó, ông bị ám ảnh bởi chứng sợ những khoảng khép kín - thang máy, đường điện ngầm, sân chơi bóng quần. Thang máy là một cái máy tuyệt đối an toàn, Langdon tự nhủ nhưng không bao giờ tin điều đó cả. Nó là một hộp kim loại nhỏ xíu treo trong một cái ống thông khép kín. Nín thở, ông bước vào buồng thang, cảm thấy cái giật thon thót quen thuộc mỗi khi cửa thang máy khép lại.
Hai tầng. Mười giây.
"Ông và ông Saunière", Fache nói khi thang máy bắt đầu chuyển, "các ông chưa hề nói gì với nhau? Chưa hề thư từ? Chưa hề gửi cho nhau bất cứ thứ gì qua bưu điện?".
Lại một câu hỏi kỳ lạ. Langdon lắc đầu: "Không. Chưa bao giờ".
Fache nghếch đầu, như thể ghi thẳng vào dầu sự việc đó.
Không nói gì, ông ta nhìn trân trân vào cánh cửa bằng crôm.
Khi họ lên cao, Langdon cố tập trung vào những cái khác hơn là bốn bức vách xung quanh. Qua sự phản chiếu của cánh cửa thang máy sáng bóng, ông thấy cái kẹp cavát của viên đại uý một cây thánh giá bằng bạc có gắn mười ba viên mã não có vân đen. Langdon thấy hơi là lạ. Biểu tượng này gọi là crux gemmata - một cây thánh giá gắn mười ba viên ngọc - một biểu tượng Thiên Chúa giáo ám chỉ Chúa và mười hai vị thánh tông đồ của Ngài. Không hiểu sao, Langdon không ngờ người chỉ huy của Cảnh sát Pháp lại phô bày tôn giáo của ông ta quá lộ liễu như vậy. Hơn nữa đây là Pháp, ở đây Thiên Chúa giáo không phải là một tôn giáo được xem như quyền tự nhiên.
"Đó là một crux gemmata", Fache đột ngột nói.
Giật mình, Langdon ngước lên thấy Fache dán mắt vào mình trong ánh phản chiếu.
Thang máy dừng sững, cửa mở ra.
Langdon bước vội ra, đi nhanh vào hành lang, thèm khát khoảng không rộng thoáng tạo nên bởi những trần cao nổi tiếng của những phòng tranh trong Louvre. Tuy nhiên, thế giới ông bước vào chẩng có gì giống với những gì ông mong đợi.
Ngạc nhiên, Langdon dừng sững lại.
Fache liếc sang: "Tôi rút ra kết luận là ông chưa bao giờ thấy Louvre sau giờ công sở, ông Langdon?".
Tôi đoán là thế. Langdon nghĩ, cố định thần lại.
Vốn được chiếu sáng hoàn hảo nhưng tối nay, các phòng trưag bầy của Louvre đột nhiên tối om. Thay cho ánh sáng trắng toả tuôn xuống từ bên trên, là một vầng đỏ lừ dường như tỏa ra từ ván chân tường - những vệt sáng đỏ lập lòe đổ tràn ra trên sàn lát đá.
Khi nhìn dọc theo hành lang tối tăm, Langdon nhận ra đáng lẽ ông nên hình dung trước cảnh tượng này. Hầu như tất cả các phòng trưng bầy chính đều để đèn đỏ vào buổi tối - những ngọn đèn được đặt ở tầm thấp theo chủ định, không tỏa sáng rộng đủ để cho các nhân viên đi lại trong các hành lang mà vẫn giữ cho các bức họa trong bóng tối tương đối để hãm chậm tác động phai màu do phơi sáng quá nhiều. Tối nay, bảo tàng có vẻ gần như ngột ngạt. Bóng tối lan dài xâm lấn mọi nơi, và những trần vòm thường khi cao vút bỗng có vẻ như những khoảng trống thấp tối đen.
"Đường này" - Fache nói, rẽ phắt sang phải và đi qua một dãy dài các phòng trưng bày nối liền với nhau.
Langdon đi theo, mắt ông cũng dần dần quen với bóng tối. Xung quanh, những bức tranh sơn dầu khổ to bắt đầu hiện ra trước mắt ông như tiến trình rửa ảnh trong một buồng tối khổng lồ mắt các nhân vật trong tranh dõi theo ông khi ông đi qua các phòng. Ông có thể ngửi thấy mùi vị quen thuộc của không khí bảo tàng - mùi tinh dầu giải iôn hăng hắc thoang thoảng chút carbon - sản phẩm của máy hút ẩm công nghiệp, với bộ lọc chạy bằng than, các máy này chạy suốt ngày để trung hòa khí CO2 gây ăn mòn, tỏa ra theo hơi thở của khách tham quan.
Lắp đặt cao trên tường, các camera an ninh lộ liễu gửi thông điệp rõ ràng đến khách tham quan: Chúng tôi nhìn thấy bạn, đừng chạm vào bất kỳ vật gì.
"Có cái nào là thật không?". Langdon hỏi chỉ về phía các camera.
Fache lắc đầu: "Tất nhiên là không".
Langdon không ngạc nhiên. Sự giám sát bằng video trong các bảo tàng cỡ này chi phí cao và không có tác dụng gì. Để giám sát các phòng trưng bày rộng hàng ngàn mét vuông, Louvre ắt phải cần đến hàng trăm kỹ thuật viên, chỉ đơn thuần để theo dõi liên tục các hiện vật. Hầu hết các bảo tàng lớn đều dùng biện pháp "an ninh ngăn chặn". Hãy quên đi việc giữ các tên trộm ở ngoài, hãy giữ chúng ở bên trong. Thiết bị ngăn chặn hoạt động sau giờ công sở, nếu một kẻ xâm nhập tháo đi một tác phẩm nghệ thuật, các lối ra sẽ được đóng kín quanh phòng trưng bày đó, và tên trộm sẽ thấy mình bị cầm tù ngay cả trước khi cảnh sát đến.
Nhiều giọng nói vang vọng trong hành lang cẩm thạch phía trước. Tiếng ồn dường như đến từ một khoang hõm rộng đằng trước mé tay phải. Một ngọn đèn sáng toả xuống cả hành lang.
"Văn phòng của ông phụ trách bảo tàng", viên đại uý nói.
Khi họ đến gần khoang hõm hơn, Langdon dõi mắt qua đoạn hành lang ngắn nhòm vào phòng làm việc sang trọng của Saunière - gỗ ấm, những bức họa của các bậc thày thời xưa, và một bàn giấy kiểu cổ đồ sộ, trên đó có mô hình một hiệp sĩ mặc giáp trụ đầy đủ cao khoảng 0,60 m. Một nhóm cảnh sát bận rộn trong căn phòng, nói chuyện điện thoại và ghi chép. Một trong số họ ngồi ở bàn của Saunière, đang sử dụng máy tính xách tay.
Rõ ràng tối nay, phòng riêng của ông phụ trách bảo tàng đã trở thành sở chỉ huy tạm thời của DCPJ.
"Messieurs", Fache gọi và mọi người quay lại, "Ne nous dérangez pas sous aucun prétexte. Entendu?" .
Mọi người trong văn phòng gật đầu hiểu ý.
Langdon đã từng treo khá nhiều biển mang dòng chữ NE PAS DÉRANDER trên các cửa phòng khách sạn đủ để hiểu nội dung mệnh lệnh của viên đại úy. Fache và Langdon sẽ không bị quấy rầy trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Để nhóm nhỏ nhân viên lại phía sau, Fache dẫn Langdon đi xa hơn nữa vào hành lang tối. Lù lù trước mặt, cách khoảng ba mươi mét là cổng vào phần nổi tiếng nhất của Louvre - Hành Lang Lớn - một hành lang dường như vô tận, nơi để những kiệt tác quý nhất của Ý tại bảo tàng Louvre. Langdon đã nhận ra đây là nơi thi thể Saunière nằm, sàn gỗ nổi tiếng của Hành Lang Lớn không thể lẫn đi đâu trong bức ảnh chụp lấy ngay.
Khi họ đến gần, Langdon nhìn thấy lối vào bị chắn bởi một hàng rào thép khổng lồ giống như ở các lâu đài thời Trung cổ nhằm ngăn chặn kẻ thù cướp bóc.
"An ninh ngăn chặn", Fache nói, khi họ tới sát những thanh thép.
Ngay cả trong bóng tối, hàng rào chắn vẫn có vẻ như có thể chặn được cả xe tăng. Từ bên ngoài, Langdon nhìn qua song sắt vào các hốc lờ mờ sáng của Hành Lang Lớn.
"Mời ông qua trước, ông Langdon", Fache nói.
Langdon quay lại. Qua trước, qua chỗ nào chứ?
Fache ra hiệu về phía sàn nhà, phần dưới của rào chắn.
Langdon nhìn xuống. Trong bóng tối, ông không nhận thấy.
Hàng rào chắn đã được nâng cao lên khoảng sáu mươi phân, tạo ra một khoảng trống xệch xẹo bên dưới.
"Khu vực này ngoài tầm kiểm soát an ninh của Louvre". Fache nói. "Đội của tôi từ Cục cảnh sát khoa học và kỹ thuật cảnh sát vừa hoàn thành cuộc điều tra của họ". Ông ta chỉ vào khe hở: "Xin hãy luồn mé dưới".
Langdon nhìn vào khoảng hẹp có thể trướn qua được dưới chân mình và rồi lại nhìn hàng rào sắt kếch xù bên trên. Ông ta đang đùa đúng không? Hàng rào chắn trông giống như một cái máy chém chờ đợi để nghiền nát những kẻ đột nhập.
Fache lầm bầm điều gì đó bằng tiếng Pháp và xem đồng hồ.
Sau đó, ông ta quỳ xuống và lách cái thân hình đồ sộ của mình dưới hàng rào. Sang tới bên kia, ông ta đứng dậy và nhìn Langdon qua song sắt.
Langdon thở dài. Chống tay lên sàn gỗ bóng lộn, ông nằm sấp và trườn về phía trước. Trong khi lách qua, cổ áo tuýt hiệu Harris chạm vào đáy của hàng rào, và ông va gáy vào đó.
Lịch sự nhỉ, Robert, ông nghĩ, dò dẫm và rồi cuối cùng cũng kéo được người qua. Đứng dậy, Langdon bắt đầu tin chắc đây sẽ là một đêm rất dài.
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: cách ly.
(2) Thuyết thần học phù thuỷ, theo đó, nữ giới được trao quyền cai quản đất trời.
(3) Tiếng Pháp trong nguyên bản: "Các ông, xin đừng quấy rầy chúng tôi vì bắt cứ lý do gì. Rõ chưa?"

Chương 4
Đại uý Bezu Fachequả có phong thái của một con bò đang cơn giận với bờ vai rộng ngửa về phía sau và cái cằm ấn chặt vào ngực. Mái tóc đen chuốt dầu bóng càng làm nổi bật đường ngôi thẳng như mũi tên chia đôi cái trán dô ra phía trước như mũi chiến hạm. Khi ông dấn bước, đôi mắt đen dường như thiêu đốt mặt đất phía trước, tỏa ánh rực lửa, báo trước tmh cách nghiêm khắc không khoan nhượng nổi tiếng của ông trong mọi vấn đề.
Langdon theo viên đại uý xuống chiếc cầu thang cẩm thạch nổi tiếng đi vào lòng nhà hõm sâu bên dưới Kim tự tháp bằng kính. Trên đường đi xuống, họ qua giữa hai vệ binh của Cục Cảnh sát tư pháp lăm lăm súng máy. Thông điệp rất rõ ràng: Không ai có thể ra vào tối nay mà không có sự cho phép của đại uý Fache.
Xuống dưới sâu hơn mặt đất, Langdon phải cố dẹp một cơn run đang dâng lên. Sự hiện diện của Fache không có chút gì là nồng nhiệt, và vào giờ phút này, bản thân bảo tàng Louvre cũng nhuốm một màu gần như tang tóc. Cầu thang, tựa lối đi trong một rạp chiếu bóng tối om, chỉ có đèn gắn ở mỗi bậc chiếu sáng lờ mờ. Langdon có thể nghe thấy tiếng chân của chính mình dội lại từ tấm kính trên đầu. Ngước lên, ông có thể nhìn thấy những làn sương tử những vòi phun nước tan dần phía bên ngoài mái nhà trong suốt.
"Ông thấy có được không?" Fache hỏi, hất cái cằm rộng về phía trên.
Langdon thờ dài, quá mệt mỏi để chơi trò đánh đố: "Vâng, Kim tự tháp của các ông thật lộng lẫy.
Fache lầm bầm: "Một cái sẹo trên bộ mặt Paris".
Lạ đấy. Langdon có cảm nhận vị chủ nhân này là người khó có thể làm vừa lòng. Ông tự hỏi liệu Fache có biết rằng Kim tự tháp này, theo yêu cầu rõ ràng của tổng thống Mitterrand, đã được xây dựng bằng đúng 666 tấm kính - một yêu cầu kỳ quái luôn là chủ đề tranh luận nóng bỏng trong các chuyên gia, họ cho rằng con số 666 là số của quỷ Satan.
Langdon quyết định không nói điều ấy ra.
Khi họ đi xa hơn vào phòng chờ dưới đất, khoảng không rộng mở từ từ hìện ra từ trong bóng tối. Nằm dưới mặt đất 19 mét, đại sảnh rộng khoảng 7.600 mét vuông mới xây dựng của bảo tàng Louvre trải ra như một cái hang bất tận. Được xây bằng đá cẩm thạch màu vàng nâu ấm áp để tương hợp với đá màu mật ong của mặt tiền bên trên, đại sảnh dưởi mặt đất thường rung lên bởi ánh sáng mặt trời và khách du lịch. Tuy nhiên, tối nay, sảnh trống rỗng và tối tăm, khíến cho toàn bộ đắm trong một không khí lạnh lẽo tựa như hầm mộ.
"Còn đội báo vệ thường trực của bảo tàng thì sao?", Langdon hỏi.
"En quarantaine" . Fache đáp, cứ như thể Langdon đang nghi ngờ tính chính trực của đội ông ta. "Hiển nhiên là đã có kẻ đột nhập. Tất cả những người canh đêm ở Louvre bên cánh Sully đều đang bị thẩm vấn. Việc đảm bảo an ninh buối tối nay cho bảo tàng được chuyển giao cho các nhân viên của tôi".
Langdon gật đầu, đi nhanh để theo kịp Fache.
"Ông biết Jacques Saunière đến mức nào?" Viên đại úy hỏi.
"Thực ra là chẳng mấy tí. Chúng tôi chưa từng gặp nhau".
Fache có vẻ ngạc nhiên: "Tối nay mới là buổi hẹn gặp đầu tiên ư?".
"Vâng. Chúng tôi dự định gặp nhau tại buổi chiêu đãi của trường Đại học Mỹ sau bài giảng của tôi nhưng không thấy ông ấy tới".
Fache ghi nguệch ngoạc vài dòng vào một cuốn sổ nhỏ. Khi họ đi tiếp, Langdon thoáng thấy khối Kim tự tháp ít nổi tiếng hơn của bảo tàng Louvre - Kim tự tháp đảo ngược - một cửa mái khổng lồ lộn ngược rủ xuống từ trên trần tựa một thạch nhũ ở khu vực kế đó. Fache dẫn Langdon đi lên một vài bậc thang đến cửa một hành lang có khung vòm, phía trên có biển đề dòng chữ: DENON. Cánh Denon là phần nổi tiếng nhất trong ba phần chính của Louvre.
"Ai là người yêu cầu có cuộc gặp mặt tối nay?" Fache đột ngột hỏi. "Ông hay ông ấy?".
Câu hỏi có vẻ kỳ lạ. "Ông Saunière", Langdon đáp khi họ vào đường hầm. "Thư ký của ông ấy đã liên lạc với tôi vài tuần trước bằng thư điện tử. Cô ấy nói rằng ông phụ trách bảo tàng biết tôi sẽ thuyết giảng ở Paris tháng này và muốn bàn chuyện gì đó với tôi trong khi tôi ở đây".
"Bàn chuyện gì?".
"Tôi không biết. Chắc là về nghệ thuật. Chúng tôi có cùng mối quan tâm".
Fache có vẻ không tin: "Ông không hề biết cuộc gặp của các ông nhằm việc gì?".
Langdon không biết. Lúc đầu ông cũng tò mò nhưng thấy không tiện hỏi cụ thể. Tôn ông Jacques Saunière nổi tiếng là thích sự riêng tư và rất ít khi cho ai gặp, chỉ riêng việc có cơ hội gặp ông cũng đủ khiến Langdon phải cảm ơn rồi.
"Ông Langdon, chí ít ông có thể đoán xem nạn nhân bị giết của chúng ta có thể muốn bàn luận gì với ông vào cái đêm ông ấy bị giết chứ? Điều đó có thể sẽ rất có ích".
Sự thẳng thừng của câu hỏi đó làm cho Langdon cảm thấy không thoải mái.
"Tôi thực sự không thể đoán được. Tôi đã không hỏi. Tôi cảm thấy vinh dự được tiếp xúc với ông ấy. Tôi là người ngưỡng mộ công trình của ông Saunière. Tôi thường dùng các bài viết của ông ấy trên lớp".
Fache ghi điều đó vào sổ.
Hai người đã đi được nửa đường hầm dẫn vào cánh Denon và Langdon có thể nhìn lhấy những cầu thang cuốn kép đôi ở phía xa, cả hai bên lên, xuống đều đứng im.
"Vậy là ông có cùng những mối quan tâm với ông ấy?" Fache hỏi.
"Vâng, trên thực tế, năm ngoái tôi đã dành nhiều thời gian soạn thảo một cuốn sách bàn về lĩnh vực giám định chủ yếu của ông Saunière. Tôi mong sao lượm lặt dược chút tri thức của ông ấy".
Fache ngước mắt: "Gì cơ?".
Rõ ràng ông ta không hiểu câu thành ngữ?
"Tôi mong sao học hỏi những suy nghĩ của ông ấy về đề tài này".
"Tôi hiểu. Và đề tài đó là gì?".
Langdon do dự, không biết diễn tả như thế nào cho chính xác: "Về cơ bản, bản thảo viết về khoa nghiên cứu các hình tượng thờ nữ thần - khái niệm về tính thánh nữ và nghệ thuật cùng những biểu tượng gắn kết với nó".
Fache giơ bàn tay mập ú vuốt tóc: "Và Saunière rành về đề tài này?".
"Không ai hơn ông ấy".
"Tôi hiểu".
Langdon cảm thấy Fache chẳng hiểu gì hết. Jacques Saunière đuợc xem là nhà mô tả các hình tượng về nữ thần hàng đầu trên thế giới. Saumère không chỉ có niềm đam mê cá nhân đối với những thánh tích có liên quan đến sự phồn thực, các nghi lễ cúng tế nữ thần, Wicca và lính nữ linh thiêng, mà trong suốt hai mươi năm phụ trách bảo tàng! Saunière đã giúp Louvre tập hợp được bộ sưu tập nghệ thuật nữ thần lớn nhất thế giới - những cái rìu của các nữ tu ở những điện thờ cổ xưa nhất của Hy Lạp ở Delphi, những cây quyền trượng bằng vàng, hàng trăm thập giá hình khóa giống như những thiên thần nhỏ của vùngTjet, những chiếc trống lắc được sử dụng ở Ai Cập cổ đại để xua đuổi tà ma, và một bộ tượng kỳ thú miêu tả cảnh Horus được nữ thần Isis cho bú.
"Có lẽ Jacques Saunière nghe nói về bản thảo của ông?".
Fache gợi ý. "Và ông ấy sắp đặt cuộc gặp gở để đề nghị giúp đỡ cho cuốn sách của ông".
Langdon lắc đầu: "Thực sự, chưa ai biết về bản thảo này. Nó vẫn ở dạng nháp, và tôi không đưa nó cho bất kỳ ai trừ người biên tập của tôi".
Fache im lặng.
Langdon không nói thêm lý do khiến ông chưa cho ai xem tập bản thảo. Bản nháp dày ba trăm trang - tạm đặt tên là Những biểu tượng của tính nữ thiêng liêng bị thất truyền - đưa ra một số diễn giải rất khác thường về hệ hình tượng tôn giáo đã chế định, những diễn giải chắc chắn sẽ gây tranh cãi.
Khi Langdon đi gần đến chiếc cầu thang cuốn vẫn đứng im, ông dừng lại, nhận thấy Fache không còn ở bên cạnh mình.
Quay lại, Langdon nhìn thấy Fache đang đứng cách đó vài mét về phía sau ở chỗ thang máy dành cho người phục vụ.
"Ta sẽ đi thang máy", Fache nói khi cửa thang máy mở ra.
"Tôi chắc ông biết Hành Lang Lớn khá xa nếu đi bộ".
Tuy Langdon biết đi thang máy lên hai tầng dài để đến Cánh Denon sẽ nhanh hơn, ông vẫn đứng im.
"Có chuyện gì không ổn?" Eache giữ cửa, có vẻ sốt ruột.
Langdon thở hắt ra, quay lại nhìn đầy thèm muốn về phía cầu thang cuốn ngoài trời. Chẳng có chuyện gì không ổn cả, ông tự dối mình, lụi hụi trở lại thang máy. Hồi bé, Langdon đã ngã xuống một cái giếng bỏ đi và suýt chết vì ngâm nước trong cái khoảng hẹp đó nhiều giờ trước khi có người đến cứu.
Kể từ đó, ông bị ám ảnh bởi chứng sợ những khoảng khép kín - thang máy, đường điện ngầm, sân chơi bóng quần. Thang máy là một cái máy tuyệt đối an toàn, Langdon tự nhủ nhưng không bao giờ tin điều đó cả. Nó là một hộp kim loại nhỏ xíu treo trong một cái ống thông khép kín. Nín thở, ông bước vào buồng thang, cảm thấy cái giật thon thót quen thuộc mỗi khi cửa thang máy khép lại.
Hai tầng. Mười giây.
"Ông và ông Saunière", Fache nói khi thang máy bắt đầu chuyển, "các ông chưa hề nói gì với nhau? Chưa hề thư từ? Chưa hề gửi cho nhau bất cứ thứ gì qua bưu điện?".
Lại một câu hỏi kỳ lạ. Langdon lắc đầu: "Không. Chưa bao giờ".
Fache nghếch đầu, như thể ghi thẳng vào dầu sự việc đó.
Không nói gì, ông ta nhìn trân trân vào cánh cửa bằng crôm.
Khi họ lên cao, Langdon cố tập trung vào những cái khác hơn là bốn bức vách xung quanh. Qua sự phản chiếu của cánh cửa thang máy sáng bóng, ông thấy cái kẹp cavát của viên đại uý một cây thánh giá bằng bạc có gắn mười ba viên mã não có vân đen. Langdon thấy hơi là lạ. Biểu tượng này gọi là crux gemmata - một cây thánh giá gắn mười ba viên ngọc - một biểu tượng Thiên Chúa giáo ám chỉ Chúa và mười hai vị thánh tông đồ của Ngài. Không hiểu sao, Langdon không ngờ người chỉ huy của Cảnh sát Pháp lại phô bày tôn giáo của ông ta quá lộ liễu như vậy. Hơn nữa đây là Pháp, ở đây Thiên Chúa giáo không phải là một tôn giáo được xem như quyền tự nhiên.
"Đó là một crux gemmata", Fache đột ngột nói.
Giật mình, Langdon ngước lên thấy Fache dán mắt vào mình trong ánh phản chiếu.
Thang máy dừng sững, cửa mở ra.
Langdon bước vội ra, đi nhanh vào hành lang, thèm khát khoảng không rộng thoáng tạo nên bởi những trần cao nổi tiếng của những phòng tranh trong Louvre. Tuy nhiên, thế giới ông bước vào chẩng có gì giống với những gì ông mong đợi.
Ngạc nhiên, Langdon dừng sững lại.
Fache liếc sang: "Tôi rút ra kết luận là ông chưa bao giờ thấy Louvre sau giờ công sở, ông Langdon?".
Tôi đoán là thế. Langdon nghĩ, cố định thần lại.
Vốn được chiếu sáng hoàn hảo nhưng tối nay, các phòng trưag bầy của Louvre đột nhiên tối om. Thay cho ánh sáng trắng toả tuôn xuống từ bên trên, là một vầng đỏ lừ dường như tỏa ra từ ván chân tường - những vệt sáng đỏ lập lòe đổ tràn ra trên sàn lát đá.
Khi nhìn dọc theo hành lang tối tăm, Langdon nhận ra đáng lẽ ông nên hình dung trước cảnh tượng này. Hầu như tất cả các phòng trưng bầy chính đều để đèn đỏ vào buổi tối - những ngọn đèn được đặt ở tầm thấp theo chủ định, không tỏa sáng rộng đủ để cho các nhân viên đi lại trong các hành lang mà vẫn giữ cho các bức họa trong bóng tối tương đối để hãm chậm tác động phai màu do phơi sáng quá nhiều. Tối nay, bảo tàng có vẻ gần như ngột ngạt. Bóng tối lan dài xâm lấn mọi nơi, và những trần vòm thường khi cao vút bỗng có vẻ như những khoảng trống thấp tối đen.
"Đường này" - Fache nói, rẽ phắt sang phải và đi qua một dãy dài các phòng trưng bày nối liền với nhau.
Langdon đi theo, mắt ông cũng dần dần quen với bóng tối. Xung quanh, những bức tranh sơn dầu khổ to bắt đầu hiện ra trước mắt ông như tiến trình rửa ảnh trong một buồng tối khổng lồ mắt các nhân vật trong tranh dõi theo ông khi ông đi qua các phòng. Ông có thể ngửi thấy mùi vị quen thuộc của không khí bảo tàng - mùi tinh dầu giải iôn hăng hắc thoang thoảng chút carbon - sản phẩm của máy hút ẩm công nghiệp, với bộ lọc chạy bằng than, các máy này chạy suốt ngày để trung hòa khí CO2 gây ăn mòn, tỏa ra theo hơi thở của khách tham quan.
Lắp đặt cao trên tường, các camera an ninh lộ liễu gửi thông điệp rõ ràng đến khách tham quan: Chúng tôi nhìn thấy bạn, đừng chạm vào bất kỳ vật gì.
"Có cái nào là thật không?". Langdon hỏi chỉ về phía các camera.
Fache lắc đầu: "Tất nhiên là không".
Langdon không ngạc nhiên. Sự giám sát bằng video trong các bảo tàng cỡ này chi phí cao và không có tác dụng gì. Để giám sát các phòng trưng bày rộng hàng ngàn mét vuông, Louvre ắt phải cần đến hàng trăm kỹ thuật viên, chỉ đơn thuần để theo dõi liên tục các hiện vật. Hầu hết các bảo tàng lớn đều dùng biện pháp "an ninh ngăn chặn". Hãy quên đi việc giữ các tên trộm ở ngoài, hãy giữ chúng ở bên trong. Thiết bị ngăn chặn hoạt động sau giờ công sở, nếu một kẻ xâm nhập tháo đi một tác phẩm nghệ thuật, các lối ra sẽ được đóng kín quanh phòng trưng bày đó, và tên trộm sẽ thấy mình bị cầm tù ngay cả trước khi cảnh sát đến.
Nhiều giọng nói vang vọng trong hành lang cẩm thạch phía trước. Tiếng ồn dường như đến từ một khoang hõm rộng đằng trước mé tay phải. Một ngọn đèn sáng toả xuống cả hành lang.
"Văn phòng của ông phụ trách bảo tàng", viên đại uý nói.
Khi họ đến gần khoang hõm hơn, Langdon dõi mắt qua đoạn hành lang ngắn nhòm vào phòng làm việc sang trọng của Saunière - gỗ ấm, những bức họa của các bậc thày thời xưa, và một bàn giấy kiểu cổ đồ sộ, trên đó có mô hình một hiệp sĩ mặc giáp trụ đầy đủ cao khoảng 0,60 m. Một nhóm cảnh sát bận rộn trong căn phòng, nói chuyện điện thoại và ghi chép. Một trong số họ ngồi ở bàn của Saunière, đang sử dụng máy tính xách tay.
Rõ ràng tối nay, phòng riêng của ông phụ trách bảo tàng đã trở thành sở chỉ huy tạm thời của DCPJ.
"Messieurs", Fache gọi và mọi ngườ
__________________

foureyes is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn
Đã có 6 thành viên gửi lời cám ơn đến foureyes vì bạn đã đăng bài:
GordonRep (02-12-2014), HenryNeeds (26-07-2020), jeffnv3 (02-02-2023), JosephNulk (20-11-2014), katinaau3 (26-02-2023), qhtznsyy75 (08-03-2015)
Old 24-08-2006, 12:34 PM   #4
Hồ sơ
abele
Member
 
Tham gia ngày: Apr 2005
Cư ngụ: Long An
Tuổi: 43
Số bài viết: 50
Tiền: 25
Thanks: 0
Thanked 32 Times in 13 Posts
abele is an unknown quantity at this point
Default

Bộ truyện này còn dài vô cùng. Mình góp sức với Foureyes nha. Bạn đã type bao nhiêu chương rồi? Cho mình hay để không post trùng với bạn nha.
abele is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn
Đã có 2 thành viên gửi lời cám ơn đến abele vì bạn đã đăng bài:
Evahqr (22-10-2022), Victorklk (06-10-2022)
Old 24-08-2006, 02:14 PM   #5
Hồ sơ
foureyes
Senior Member
 
foureyes's Avatar
 
Tham gia ngày: Nov 2004
Số bài viết: 682
Tiền: 25
Thanks: 18
Thanked 254 Times in 157 Posts
foureyes is an unknown quantity at this point
Default

Trích:
Originally posted by abele@Aug 24 2006, 11:34 AM
Bộ truyện này còn dài vô cùng. Mình góp sức với Foureyes nha. Bạn đã type bao nhiêu chương rồi? Cho mình hay để không post trùng với bạn nha.
[snapback]10224[/snapback]

Cám ơn nghen,tiếp sức mình đi. Không phải mình type đâu, mình copy từ trang [Đăng nhập để xem liên kết. ] đó. Bạn cứ post tiếp đi. Mình sẽ tiếp theo phần của bạn.

Truyện này hay quá hén. Phim thì dở ẹt
__________________

foureyes is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn
Đã có 3 thành viên gửi lời cám ơn đến foureyes vì bạn đã đăng bài:
Fajedgeaidele (22-11-2016), psydayDrype (23-09-2015), Stevvinhith (15-09-2015)
Old 30-08-2006, 05:50 PM   #6
Hồ sơ
abele
Member
 
Tham gia ngày: Apr 2005
Cư ngụ: Long An
Tuổi: 43
Số bài viết: 50
Tiền: 25
Thanks: 0
Thanked 32 Times in 13 Posts
abele is an unknown quantity at this point
Default

(tiếp theo chương 4)
......
"Messieurs", Fache gọi và mọi người quay lại, "Ne nous dérangez pas sous aucun prétexte. Entendu?"(3) .
Mọi người trong văn phòng gật đầu hiểu ý.
Langdon đã từng treo khá nhiều biển mang dòng chữ NE PAS DÉRANDER trên các cửa phòng khách sạn đủ để hiểu nội dung mệnh lệnh của viên đại úy. Fache và Langdon sẽ không bị quấy rầy trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Để nhóm nhỏ nhân viên lại phía sau, Fache dẫn Langdon đi xa hơn nữa vào hành lang tối. Lù lù trước mặt, cách khoảng ba mươi mét là cổng vào phần nổi tiếng nhất của Louvre - Hành Lang Lớn - một hành lang dường như vô tận, nơi để những kiệt tác quý nhất của Ý tại bảo tàng Louvre. Langdon đã nhận ra đây là nơi thi thể Saunière nằm, sàn gỗ nổi tiếng của Hành Lang Lớn không thể lẫn đi đâu trong bức ảnh chụp lấy ngay.
Khi họ đến gần, Langdon nhìn thấy lối vào bị chắn bởi một hàng rào thép khổng lồ giống như ở các lâu đài thời Trung cổ nhằm ngăn chặn kẻ thù cướp bóc.
"An ninh ngăn chặn", Fache nói, khi họ tới sát những thanh thép.
Ngay cả trong bóng tối, hàng rào chắn vẫn có vẻ như có thể chặn được cả xe tăng. Từ bên ngoài, Langdon nhìn qua song sắt vào các hốc lờ mờ sáng của Hành Lang Lớn.
"Mời ông qua trước, ông Langdon", Fache nói.
Langdon quay lại. Qua trước, qua chỗ nào chứ?
Fache ra hiệu về phía sàn nhà, phần dưới của rào chắn.
Langdon nhìn xuống. Trong bóng tối, ông không nhận thấy.
Hàng rào chắn đã được nâng cao lên khoảng sáu mươi phân, tạo ra một khoảng trống xệch xẹo bên dưới.
"Khu vực này ngoài tầm kiểm soát an ninh của Louvre". Fache nói. "Đội của tôi từ Cục cảnh sát khoa học và kỹ thuật cảnh sát vừa hoàn thành cuộc điều tra của họ". Ông ta chỉ vào khe hở: "Xin hãy luồn mé dưới".
Langdon nhìn vào khoảng hẹp có thể trướn qua được dưới chân mình và rồi lại nhìn hàng rào sắt kếch xù bên trên. Ông ta đang đùa đúng không? Hàng rào chắn trông giống như một cái máy chém chờ đợi để nghiền nát những kẻ đột nhập.
Fache lầm bầm điều gì đó bằng tiếng Pháp và xem đồng hồ.
Sau đó, ông ta quỳ xuống và lách cái thân hình đồ sộ của mình dưới hàng rào. Sang tới bên kia, ông ta đứng dậy và nhìn Langdon qua song sắt.
Langdon thở dài. Chống tay lên sàn gỗ bóng lộn, ông nằm sấp và trườn về phía trước. Trong khi lách qua, cổ áo tuýt hiệu Harris chạm vào đáy của hàng rào, và ông va gáy vào đó.
Lịch sự nhỉ, Robert, ông nghĩ, dò dẫm và rồi cuối cùng cũng kéo được người qua. Đứng dậy, Langdon bắt đầu tin chắc đây sẽ là một đêm rất dài.
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: cách ly.
(2) Thuyết thần học phù thuỷ, theo đó, nữ giới được trao quyền cai quản đất trời.
(3) Tiếng Pháp trong nguyên bản: "Các ông, xin đừng quấy rầy chúng tôi vì bất cứ lý do gì. Rõ chưa?"
abele is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn
Đã có 7 thành viên gửi lời cám ơn đến abele vì bạn đã đăng bài:
Arthurtex (17-11-2016), hcczhgub11 (04-05-2014), HenryNeeds (26-07-2020), kellynq4 (19-02-2023), MyLove (31-10-2007), sjgubtho90 (04-02-2015), Stephencisp (26-01-2014)
Old 30-08-2006, 05:55 PM   #7
Hồ sơ
abele
Member
 
Tham gia ngày: Apr 2005
Cư ngụ: Long An
Tuổi: 43
Số bài viết: 50
Tiền: 25
Thanks: 0
Thanked 32 Times in 13 Posts
abele is an unknown quantity at this point
Default

Chương 5
Quảng trường Murray Hill - Tổng Hành Dinh Quốc Gia mới của Opus Dei, trung tâm hội nghị - tọa lạc ở 243 Đại lộ Lexington, New York. Với giá hơn bốn mươi bảy triệu đôla, nó là một tòa tháp rộng gần 15.000 mét vuông được ốp gạch đỏ và đá vôi vùng Indiana. Do May & Pinska thiết kế, tòa nhà bao gồm trên một trăm phòng ngủ, sáu phòng ăn, thư viện, phòng ở phòng họp, và văn phòng. Tầng hai, tầng tám và tầng mười sáu là các nhà nguyện được trang trí đồ gỗ và đá cẩm thạch.
Tầng mười bảy hoàn toàn là nhà ở. Đàn ông vào tòa nhà qua cổng chính ở phía Đại lộ Lexington. Phụ nữ vào qua phố bên cạnh và "cách biệt hẳn, không nghe thấy và không nhìn thấy" đám đàn ông vào bất kỳ lúc nào trong tòa nhà.
Từ chiều nay, trong căn phòng tôn nghiêm ở tầng trên cùng của mình, Giám mục Manuel Aringarosa đã đóng một túi đồ du lịch nhỏ và mặc chiếc áo thày tu truyền thống màu đen. Bình thường, ông quấn dây lưng màu tía quanh hông, nhưng tối nay ông sẽ ra nơi công cộng, và ông không muốn gây ra sự chú ý tới chức vụ cao của mình. Chỉ những người với con mắt tinh tường mới có thể để ý đến chiếc nhẫn Giám mục bằng vàng 14 kara với viên thạch anh tím cùng những viên kim cương to, và miếng vải đính mũ tế. Quàng túi du lịch qua vai, ông thầm đọc một câu kinh và rời phòng đi xuống sảnh trước - nơi người lái xe đang chờ để đưa ông ra sân bay.
Giờ đây ngồi trên một máy bay thương mại đi Roma, Aringarosa nhìn ra ngoài cửa sổ xuống Đại Tây Dương sẫm màu.
Mặt trời vừa lặn, nhưng Aringarosa biết sao chiếu mệnh của mình đang lên. Tối nay trận chiến sẽ thắng lợi, ông nghĩ, kinh ngạc vì chỉ vài tháng trước, ông vẫn còn cảm thấy chẳng có quyền uy gì chống lại những bàn tay đe dọa phá hủy đế chế của ông.
Là chủ tịch của Opus Dei, Giám mục Aringarosa đã dành mười năm qua của cuộc đời để truyền bá thông điệp "Tác phẩm của Chúa", nghĩa đen của từ Opus Dei. Giáo đoàn này được thầy tu người Tây Ban Nha Jose Maria Escriva thành lập năm 1928, nhằm thúc đẩy sự quay về với các giá trị Thiên Chúa giáo bảo thủ và khuyến khích các thành viên thực hành các nghi lễ gột rửa hàng ngày để làm Tác phẩm của Chúa.
Triết lý truyền thống của Opus Dei đã bắt rễ ở Tây Ban Nha trước chế độ Franco, nhưng với sự xuất bản vào năm 1934 cuốn sách tinh thần Đạo của Josemaria Esscrivá - 999 điểm về việc thực hiện nhiệm vụ của Chúa trong đời sống cá nhân - thông điệp của Escrivá bùng nổ trên toàn thế giới. Giờ đây, với hơn bốn triệu bản của cuốn Đạo - phát hành bằng bốn mươi hai ngôn ngữ, Opus Dei đã trở thành lực lượng toàn cầu. Người ta có thể tìm thấy những khu nhà ở, các trung tâm giáo huấn, và thậm chí cả các trường đại học của Opus Dei ở hầu hết các thành phố lớn khắp thế giới. Opus Dei là tổ chức Thiên Chúa giáo phát triển nhanh nhất và vững vàng nhất về mặt tài chính trên thế giới. Thật không may, Aringarosa được biết, trong một thời đại nghi ngờ tôn giáo, các giáo phái, quyền lực và của cải mỗi lúc một leo thang của Opus Dei thành một cục nam châm thu hút sự ngờ vực. "Nhiều người gọi Opus Dei là một kiểu thờ cúng tẩy não".
Các phóng viên thường chất vấn. "Một số khác lại gọi các ông là tổ chức Cơ đốc giáo bí mật bảo thủ cực đoan. Vậy các ông là gì?".
"Opus Dei không phải cả hai thứ đó", giám mục kiên nhẫn trả lời. "Chúng tôi là một Giáo hội Thiên Chúa giáo. Chúng tôi là một giáo đoàn của những người Thiên Chúa giáo lấy việc tuân theo học thuyết Thiên Chúa giáo một cách nghiêm ngặt hết mức có thể trong đời sống hàng ngày làm ưu tiên".
"Liệu Tác phẩm của Chúa có nhất thiết bao gồm những nguyện thề giữ gìn sự trong trắng, thu hoa lợi cho nhà thờ, và chuộc tội lỗi bằng tự hành xác?".
"Các bạn chỉ mới miêu tả một phần nhỏ dân số của Opus Dei", Aringarosa nói. "Có rất nhiều mức độ tham gia. Hàng nghìn thành viên của Opus Dei đã kết hôn, có gia đình, và thực hiện các công việc của Chúa trong cộng đồng của chính họ.
Những người khác chọn cuộc sống tu khổ hạnh trong các tu viện của chúng tôi. Những lựa chọn này hoàn toàn là cá nhân, nhưng mọi người trong Opus Dei đều chia sẻ mục đích làm cho thế giới tốt đẹp hơn bằng việc thực hiện Tác phẩm của Chúa.
Chắc chắn đây là một sự kiếm tìm đáng ngưỡng mộ".
Tuy nhiên, lẽ phải hiếm khi phát huy tác dụng, các phương tiện truyền thông luôn xoay quanh các vụ tai tiếng, và Opus Dei, cũng như hầu hết các tổ chức lớn, luôn có một vài linh hồn lầm lạc trong số các thành viên của mình, làm ô danh cả nhóm.
Hai tháng trước, một nhóm Opus Dei ở một trường đại học miền Trung Tây nước Mỹ bị bắt quả tang cho những hội viên mới dùng mescaline gây ảo giác nhằm tạo trạng thái khinh khoái mà các tân tín đồ sẽ cảm nhận như là một trải nghiệm tôn giáo. Một sinh viên đại học khác dùng chiếc dây lưng hành xác có ngạnh quá mức yêu cầu hai tiếng mỗi ngày và bị nhiễm trùng gần chết. Ở Boston không lâu trước đây, một chủ ngân hàng đầu tư trẻ được giác ngộ đã hiến tất cả tiền tiết kiệm cả đời mình cho Opus Dei trước khi tự tử.
Những con chiên lạc lối, Aringarosa nghĩ, trái tim hướng về họ.
Tất nhiên, mất mặt nhất là phiên tòa xử tên gián điệp của FBI Robert Hanssen, một vụ được công bố rộng rãi. Ngoài việc là một thành viên nổi bật của Opus Dei, tên này hóa ra còn là kẻ bệnh hoạn tình dục. Vụ xét xử hắn đã tiết lộ những chứng cứ cho thấy hắn đã lắp camera quay trộm trong phòng ngủ để các bạn hắn có thể xem cảnh hắn làm tình với vợ. "Thật khó có thể là trò tiêu khiển của một người Thiên Chúa giáo mộ đạo", quan tòa nhấn mạnh.
Đáng buồn là tất cả những sự kiện này góp phần sinh ra một nhóm quan sát mới gọi là Mạng nhận thức Opus Dei (ODAN).
Trang web nổi tiếng của nhóm - [Đăng nhập để xem liên kết. ] kể lại những câu chuyện ghê sợ từ miệng những cựu thành viên Opus Dei.
Những người này cảnh báo mối nguy hiểm của việc gia nhập giáo phái. Các phương tiện truyền thông giờ đây gọi Opus Dei là "Mafia của Chúa" và "Sùng bái Kirixitô".
Chúng ta sợ những gi chúng ta không hiểu. Aringarosa nghĩ, tự hỏi liệu những người chỉ trích này có biết có bao nhiêu cuộc đời đã được Opus Dei làm tốt đẹp thêm lên. Giáo đoàn đã dược Vatican xác nhận đầy đủ và ban phước. Opus Dei là đoàn giáo sĩ cao cấp của riêng Giáo hoàng.
Tuy nhiên, gần đây, Opus Dei thấy mình đang bị đe dọa bởi một thế lực có sức mạnh gấp bội các phương tiện truyền thông… một kẻ thù bất ngờ mà Aringarosa không thể trốn chạy.
Năm tháng trước, sự biến ảo của quyền lực đã bị lung lay, và Aringarosa vẫn còn đang lảo đảo vì cú đòn đó.
"Chúng không biết cuộc chiến mà chúng châm ngòi", Aringarosa thì thầm với chính mình, nhìn qua cửa sổ máy bay xuống đại dương tối sẫm bên dưới. Trong giây lát, ông quay lại nhìn hình ảnh phản chiếu gương mặt không cân đối của mình - đen, dài, nổi bật lên là cái mũi khoằm, tẹt dí do đã từng bị đấm gẫy ở Tây Ban Nha khi ông còn là một nhà truyến giáo trẻ tuổi. Cái khuyết tật thể chất ấy giờ chả mấy ai để ý. Thế giới của Aringarosa là thế giới của linh hồn, đâu phải của thể xác.
Khi chiếc phi cơ đi qua bờ biển Bồ Đào Nha, điện thoại trong tấm áo thầy tu của Aringarosa rung lên theo chế độ tắt chuông.
Mặc dù luật hàng không cấm sử dụng điện thoại trong các chuyến bay, nhưng Aringarosa biết đây là cuộc gọi mà ông không thể để lỡ. Chỉ có một người biết số này, người đã gửi chiếc điện thoại này qua đường bưu điện cho Aringarosa.
Hồi hộp, Giám mục trả lời nhỏ nhẹ: "Vâng?".
"Silas đã biết chỗ của viên đá đỉnh vòm", người gọi nói, "Nó ở Paris. Trong nhà thờ Saint Sulpice".
Giám mục Aringarosa mỉm cười: "Thế thì chúng ta đang ở gần nó".
"Chúng tôi có thể đoạt nó ngay lập tức nhưng chúng tôi cần ảnh hưởng của cha".
"Tất nhiên rồi. Hãy nói cho tôi biết tôi phải làm gì".
Khi Aringarosa tắt máy, tim ông đập thình thịch. Một lần nữa, ông lại nhìn xuống khoảng không đêm tối, cảm thấy mình bé nhỏ hẳn bên cạnh những sự kiện do chính ông đã phát động.
Cách đó năm trăm dặm, gã bạch tạng tên là Silas cúi mình trên một bồn nước nhỏ và thấm máu trên lưng, nhìn những vệt đỏ loang tròn trong nước. Gột rửa mình với cây bàỉ hương và ta sẽ sạch sẽ, hắn cầu nguyện, trích dẫn Thánh ca. Hãy gột rửa, và ta sẽ trắng hơn tuyết.
Silas cảm thấy một linh tính được đánh thức - điều mà hắn chưa từng cảm thấy trong cuộc đời trước đây. Nó vừa gây kinh ngạc vừa kích thích hắn. Trong thập kỷ vừa rồi, hắn đã đi theo Đạo gột sạch bản thân khỏi tội lỗi… xây dựng lại cuộc đời… xóa sạch bạo lực trong quá khứ. Nhưng tối nay, tất cả đã ào trở lại.
Lòng căm thù mà hắn khó khăn vật lộn để chôn vùi đã được khơi dậy. Hắn bàng hoàng thấy quá khứ lại nổi lên nhanh biết bao. Và cùng với nó, tất nhiên, là kỹ năng của hắn. Đã cùn mòn nhưng còn được việc chán.
Thông điệp của Chúa Jesu là một thông điệp về hòa bình… về phi bạo lực…về tình yêu. Đây là thông điệp mà Silas được dạy ngay từ đầu và là thông điệp hắn luôn giữ trong trái tim. Nhưng đây cũng là thông điệp mà kẻ thù của Chúa Jesus đang đe dọa hủy hoại. Những kẻ đe dọa Chúa bằng vũ lực sẽ được đáp trả bằng vũ lực. Bất di bất dịch và kiên định.
Trong hai thiên niên kỷ, những người lính của Chúa đã bảo vệ đức tin của họ chống lại những kẻ định gạt bỏ nó. Tối nay, Silas đã được gọi tham gia trận chiến.
Lau khô các vết thương, hắn mặc chiếc áo choàng dài đến mắt cá chân, có mũ chùm đầu. Nó xấu xí, bằng len tối màu, làm nổi bật nước da và mái tóc trắng. Thắt chặt dây áo choàng quanh hông, hắn kéo mũ chùm lên đầu và ngắm nhìn mình trong gương bằng đôi mắt đỏ lừ. Các bánh xe đang chuyển động

(nguồn vnthuquan.net)
abele is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn
Đã có 3 thành viên gửi lời cám ơn đến abele vì bạn đã đăng bài:
Leonvjc (02-10-2022), MyLove (31-10-2007), ukkjrjoo61 (30-06-2015)
Old 30-08-2006, 08:06 PM   #8
Hồ sơ
abele
Member
 
Tham gia ngày: Apr 2005
Cư ngụ: Long An
Tuổi: 43
Số bài viết: 50
Tiền: 25
Thanks: 0
Thanked 32 Times in 13 Posts
abele is an unknown quantity at this point
Default

Chương 6
Sau khi khép mình chui dưới hàng rào bảo vệ, Robert Langdon giờ đây đứng bên trong lối vào Hành Lang Lớn. Ông nhìn dõi vào miệng một hành lang dài, sâu như hẽm núi. Hai bên hành lang, những bức tường vút lên với độ cao mười mét, như tan biến vào bóng tối bên trên. Những bóng đèn bảo quản đỏ kệch hướng lên trên, tỏa một ánh sáng mờ không tự nhiên lên bộ sưu tập kỳ vĩ gồm những tác phẩm của Da Vinci, Titian, và Caravaggio treo lơ lửng từ những dây cáp trên trần. Tĩnh vật, các cảnh tôn giáo và phong cảnh đẹp cùng với chân dung của các quý tộc và chính trị gia.
Mặc dù Hành Lang Lớn cất giữ nghệ thuật Ý nổi tiếng nhất của Louvre, nhiều khách du lịch lại cảm thấy món quà gây ấn tượng nhất của cánh này, trên thực tế, lại là cái sàn gỗ nổi tiếng của nó. Được sắp đặt theo một thiết kế ngoạn mục mang tính kỷ hà với những lát gỗ sồi xếp chéo góc, mặt sàn tạo ra một ảo giác thoáng qua - một mạng lưới đa chiều mang lại cho du khách cảm giác là họ đang trôi trong phòng trưng bày trên một bề mặt thay đổi theo mỗi bước đi.
Khi cái nhìn của Langdon bắt đầu dõi theo đường ván lát, mắt ông bỗng dừng phắt trên một vật bất ngờ nằm trên sàn chỉ cách ông vài mét về bên trái, khoanh giữa dải băng đánh dấu của cảnh sát. Ông quay về phía Fache. "Có phải… một bức Caravaggio ở trên sàn không?".
Fache gật đầu mà không cần nhìn.
Bức tranh, Langdon đoán, đáng giá tới hai triệu đôla, mà nằm chỏng chơ trên sàn như một tấm quảng cáo vất đi. "Thế quái nào mà nó lại nằm trên sàn như vậy?".
Fache nhìn trừng trừng, rõ ràng không hề xúc động: "Đây là hiện trường vụ án, ông Langdon ạ. Chúng ta không được đụng vào bất kỳ thứ gì. Bức tranh đó đã bị ông phụ trách bảo tàng kéo xuống. Đó là cách ông ấy khởi động hệ thống an ninh".
Langdon nhìn vào cánh cổng, cố gắng mường tượng những gì đã xảy ra.
"Ông phụ trách bảo tàng bị tấn công trong phòng làm việc, trốn chạy vào Hành Lang Lớn, và khới động cửa bảo vệ bằng cách kéo bức vẽ đó từ trên tường xuống. Cổng bảo vệ sập ngay lập tức chặn mọi lối ra vào. Đây là cánh cửa duy nhất để ra vào Hành Lang Lớn".
Langdon cảm thấy không rõ: "Vậy là ông ta dã thực sự bắt được kẻ tấn công mình trong Hành Lang Lớn sao?".
Fache lắc đầu: "Cổng bảo vệ đã ngăn cách Saunière với kẻ tấn công ông. Tên sát thủ bị chặn lại ở hành lang ngoài và bắn Saunière qua cánh cổng này". Fache chỉ về phía miếng kim loại màu cam lủng lầng ở một song sắt của cánh cổng mà họ vừa chui qua bên dưới. "Đội canh sát khoa học - kỹ thuật (PTS) đã tìm thấy vết khói đạn phụt lại của khẩu súng. Hắn đã bắn qua chấn song. Saunière đã chết một mình trong này".
Langdon nhớ lại bức ánh chụp thi thể Saunière. Họ nói ông ấy đã làm điều đó với chính mình. Langdon nhìn hành lang mênh mông phía trước. "Vậy xác ông ấy ở đâu?".
Fache chỉnh thẳng cái kẹp cà vạt hình thánh giá và bắt đầu đi.
"Chắc ông đã biết, Hành Lang Lớn này khá dài".
Độ dài chính xác, nếu Langdon nhớ đúng, thì là khoảng 500 mét, bằng ba đài tưởng niệm Washington nối liền nhau. Chiều rộng của hành lang cũng hoành tráng như thế, có thể dễ dàng chứa hai đoàn tàu chở khách xếp hàng ngang cạnh nhau. Điểm suốt dọc trục trung tâm hành lang là những pho tượng hoặc những thạp sứ lớn, tạo thành một đường ngăn trang nhã, giữ cho dòng khách tham quan theo chiều đi lên ở một bên và theo chiều đi xuống ở bên kia.
Fache im lặng, thoăn thoắt sải bước theo mé bên phải của hành lang, mắt nhìn trân trân về phía trước. Langdon cảm thấy gần như bất kính khi đi qua bao kiệt tác như vậy mà không dừng lại dù chỉ để ìiếc nhìn.
Không phải bởi mình chẳng nhìn thấy gì trong ánh sáng này, ông nghĩ.
Tệ thay, cái ánh sáng đỏ lịm này lại làm Langdon nhớ đến trải nghiệm lần trước của mình trong ánh sáng mờ ảo của Viện Tư liệu mật Vatican. Đây là lần thứ hai trong buổi tối hôm nay ông liên tưởng đến lần suýt chết ở Roma. Ông lại chợt nhớ đến Vittoria. Cô đã vắng mặt trong những giấc mơ của ông nhiều tháng nay. Langdon không thể tin rằng chuyện ở Roma mới chỉ cách đây một năm, mà đã như hàng thế kỷ rồi. Một cuộc đời khác.
Lần cuối cùng ông nhận được thư Vittoria là vào tháng 12 - một bưu ảnh nói rằng cô đang trên đường đến biển Java để tiếp tục nghiên cứu về vật lý của cá đuối một dề tài về việc sử dụng vệ tinh để theo dấu sự di trú của cá đuối? Langdon chẳng bao giờ nuôi ảo tưởng rằng một phụ nữ như Vittoria Vetra lại có thể sống hạnh phúc với ông trong một học xá đại học, nhưng cuộc gặp gỡ bất ngờ ở Roma mở ra nơi ông một khát khao mà ông không bao giờ tưởng tượng là mình có thể cảm thấy. Ham muốn sống độc thân suốt đời của ông cùng những tự do giản đơn mà nó đem lại, chợt lung lay… thay thế bởi một cảm giác trống rỗng bất ngờ dường như cứ lớn dần suốt trong năm qua.
Họ tiếp tục bước đi, nhưng Langdon vẫn không nhìn thấy cái xác nào hết. Jacques Saunière đi được xa thế sao? Ông Saunière bị một viên đạn găm vào bụng. Ông ấy chết từ từ. Có thể là trong vòng mười lăm - hai mươi phút. Ông ấy rõ ràng là người có sức chịu đựng tốt".
Langdon quay lại, thất kinh: "Nhân viên bảo vệ mất mười lăm phút mới đến được đây sao?".
"Tất nhiên là không. Bảo vệ bảo tàng Louvre phản ứng ngay lập tức với tiếng chuông báo động và phát hiện ra Hành Lang Lớn đã đóng. Qua cánh cổng, họ có thể nghe thấy có người đang di chuyển ở đầu đằng kia hành lang, nhưng họ không thể nhìn thấy đó là ai. Họ quát hỏi, nhưng không được trả lời. Đoán chắc rằng đó chỉ có thể là kẻ trộm, họ đã làm theo quy định và gọi điện cho Cảnh sát tư pháp . Chúng tôi đã chiếm lĩnh vị trí trong vòng mười lăm phút. Khi đến, chúng tôi nâng hàng rằo chắn lên đủ để có thể trườn qua bên dưới, và tôi đã điều mười hai cảnh sát vũ trang vào bên trong. Họ đã kiểm tra hết chiều dài Hành Lang Lớn để vây bắt kẻ đột nhập".
"Và?".
Họ chẳng thấy ai bên trong. Trừ…", ông ta chỉ về phía xa hơn trong hành lang, "Ông ấy".
Langdon dõi theo ngón tay chỉ thắng của Fache. Đầu tiên ông nghĩ Fache đang chỉ một bức tượng bằng đá cẩm thạch to ở giữa hành lang. Tuy nhiên, khi họ đi tiếp, Langdon bắt đầu nhìn xa hơn bức tựơng. Sâu vào hành lang ba mươi thước, một ngọn đèn chiếu đơn trên cột di động rọi xuống sàn, tạo thành một quầng sáng trắng trong căn phòng đỏ thẫm. Ở giữa quầng sáng đó, như một con côn trùng dưới kính hiển vi, là xác của ông phụ trách bảo tàng nằm trần truồng trên sàn gỗ.
"Ông đã xem bức ảnh", Fache nói, "vậy thì cảnh tượng này không có gì bất ngờ".
Langdon cảm thấy rợn cả người khi họ tiến về phía thi thể.
Trước mắt ông là một trong những hình ảnh kỳ lạ nhất mà ông từng thấy.
Thi thể tái nhợt của Jacques Sainière nằm trên sàn gỗ y hệt như trong ảnh. Đứng bên cái xác và nheo mắt trong ánh sáng chói loà Langdon kinh ngạc tự nhắc mình rằng Saunière đã dùng những phút cuối cùng của đời mình để sắp đặt cơ thể mình theo tư thế kỳ lạ như thế này.
Saunière trông đặc biệt tráng kiện đối với một người ở tuổi của ông… và tất cả các cơ bắp nổi lên rõ ràng. Ông đã cởi tất cả quần áo, đặt gọn gàng trên sàn, và nằm ngửa giữa hành lang rộng, chính xác theo trục dọc của căn phòng. Tay chân ông dang ra như đại bàng xòe cánh, tựa một đứa trẻ làm một thiên thần bằng tuyết… hoặc, có lẽ ví thế này thì thích hợp hơn, tựa một người đàn ông bị phanh thây bởi một lực vô hình.
Ngay bên dưới xương ức của Saunière, một vết máu đánh dấu nơi viên đạn găm vào thịt ông. Lạ thay, vết thương chảy máu rất ít, chỉ để lại một vũng máu nhỏ đã đen lại.
Ngón trỏ tay trái của Saunière cũng dính máu, hiển nhiên là do nhúng vào vết thương để tạo ra cái nét gây hoang mang nhất nơi giường lâm chung ma quái của ông; dùng máu mình làm mực và cái bụng trần làm toan, Saunière đã vẽ một biểu tượng đơn giản trên da thịt mình - năm dòng kẻ thẳng cắt chéo nhau tạo thành một hình sao năm cánh.
Hình sao năm cánh.
Ngôi sao đẫm máu, ở giữa rốn Saunière, mang đến cho thi thể ông một hào quang rành là ma quái. Bức ảnh Langdon nhìn thấy đã đủ ớn lạnh, nhưng bây giờ, chứng kiến tận mắt khung cảnh này, Langdon cảm thấy mỗi lúc một thêm bồn chồn.
Ông ấy tự làm điều đó cho chính mình.
"Ông Langdon?" Đôi mắt đen của Fache lại nhìn ông.
"Đó là một hình sao năm cánh", Langdon nói, giọng ông nghe vang vọng trong không gian rộng lớn. "Một trong những biểu tượng cổ xưa nhất trên trái đất. Được dùng hơn bốn nghìn năm trước Công nguyên".
"Và nó có ý nghĩa gì?".
Câu hỏi này bao giờ cũng khiến Langdon do dự. Nói với ai đó một biểu tượng có ý nghĩa gì cũng giống như nói họ nên cảm nhận một bài hát như thế nào - điều đó với mỗi người một khác. Chiếc mũ trắng trùm đầu của Đảng 3K (Ku Klux Klan) gợi lên ở Mỹ những hình ảnh của căm thù và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, nhưng cùng trang phục ấy lại mang ý nghĩa về niềm tin tôn giáo ở Tây Ban Nha.
Các biểu tượng mang những ý nghĩa khác nhau trong từng hoàn cảnh khác nhau!", Langdon nói. "Ban đầu, ngôi sao năm cánh là biểu tượng vô tôn giáo".
Fache gật đầu: "Thờ ma quỷ".
"Không", Langdon sửa lại, ngay lập tức nhận ra rằng sự lựa chọn từ ngữ của ông nên rõ ràng hơn.
Ngày nay, từ pagan (vô đạo) đã trở thành đồng nghĩa với thờ ma quỷ - một cách hiểu sai thô thiển. Gốc của từ này thực sự bắt nguồn từ chữ Latinh paganus, nghĩa là người nhà quê.
"Pagan" là những người dân quê chưa được truyền giáo thực sự nên cứ bám lấy những tôn giáo cổ xưa và thôn dã thờ Tự Nhiên Trên thực tế, Nhà Thờ sợ những người sống ở làng quê đến nỗi một từ vô thưởng vô phạt để chỉ "dân làng (villain) - cũng bị biến nghĩa thành kẻ xấu.
"Ngôi sao năm cánh", Langdon cố làm cho nó dễ hiểu hơn, "là một biểu tượng trước Công Nguyên có liên quan đến tín ngưỡng tôn thờ Tự nhiên. Người cổ đại luôn hình dung thế giới của họ thành hai nửa - nam tính và nữ tính. Các nam thần và nữ thần của họ cùng nhau giữ cho cân bằng quyền lực âm và dương. Khi tính nam và tính nữ cân bằng thì có sự hài hòa trong thế giới. Khi chúng mất cân bằng, thì sẽ xuất hiện sự lộn xộn".
Langdon chỉ vào bụng của Saunière. "Hình sao năm cánh này tiêu biểu nửa cái của mọi sự vật - một khái niệm mà các sứ gia tôn giáo gọi là "tính nữ thiêng liêng" hay "nữ thần siêu phàm".
Saunière ở trong số ít người biết được điều này".
"Saunière vẽ một biểu tượng nữ thần trên bụng mình sao?".
Langdon phải thừa nhận, điều đó có vẻ kỳ lạ: "Theo cách diễn giải cụ thể nhất, thì hình sao năm cánh tượng trưng cho thần Vệ nữ - nữ thần của tình yêu xác thịt và sắc đẹp".
Fache nhìn người đàn ông lõa thể và lầm bầm.
"Tôn giáo sơ khai dựa trên trật tự thiêng liêng của Tự nhiên.
Thần Vệ nữ và sao Kim là một. Nữ thần này có một chỗ trên bầu trời đêm và được gọi bằng nhiều tên- Vệ nữ, Ngôi Sao Phương Đông, Ishtar, Astarte - tất cả đều là những khái niệm mang tính nữ đầy quyền uy với mối liên hệ chặt chẽ với Tự nhiên và Mẹ Đất".
Fache lúc này có vẻ còn hoang mang hơn, như thể, cách nào đó, ông ta vẫn thích cái ý nghĩa thờ ma quỷ hơn.
Langdon quyết định không nói cho ông ta biết đặc điểm kỳ lạ nhất của hình sao năm cánh - nguồn gốc những liên hệ mang tính đồ họa của nó với sao Kim. Khi còn là một sinh viên trẻ khoa chiêm tinh học, Langdon đã sửng sốt khi biết rằng cứ tám năm một lần, sao Kim lại vẽ trên bầu trời một hình sao năm cánh hoàn hảo. Người cổ đại đã quá kinh ngạc khi quan sát hiện tượng này đến mức sao Kim cùng hình vẽ này trở thành biểu tượng của sự hoàn hảo, vẻ đẹp, và những phẩm chất chu kỳ của tình yêu nhục dục. Để tỏ lòng tôn kính đối với phép thuật của sao Kim, người Hy Lạp đã dùng chu kỳ tám năm để tổ chức thế vận hội Olympic. Ngày nay, rất ít người nhận ra rằng chu kỳ bốn năm của Olympic hiện đại vốn theo nửa chu kỳ của sao Kim. Càng hiếm hơn nữa những người biết rằng hình sao năm cánh đã từng gần như trở thành con dấu chính thức của thế vận hội Olympic nhưng đã bị cải biên vào phút cuối - năm đỉnh của nó chuyển thành năm vòng tròn giao nhau để phản ánh tốt hơn tinh thần đoàn kết và hòa đồng của các cuộc chơi.
"Ông Langdon", Fache đột nhiên nói. "Rõ ràng, hình sao năm cánh chắc cũng liên quan đến ma quỷ. Những bộ phim Mỹ kinh dị của các ông chứng tỏ rõ điểm đó".
Langdon cau mày. Cảm ơn ngài, Hollywood. Giờ đây, trên thực tế hình sao năm cánh là hình ảnh rập khuôn trong những bộ phim truyền hình nhiều tập thuộc loại dao găm súng lục, thường được vẽ trên tường nhà của những kẻ thờ quỷ Satan cùng với những biểu tượng khác được cho là gắn với ma quỷ.
Langdon luôn luôn thất vọng khi ông thấy biểu tượng sao năm cánh trong khung cảnh như vậy; nguồn gốc đích thực của hình sao năm cánh thực sự linh thiêng.
"Tôi cam đoan với ông", Langdon nói, "dù ông nhìn thấy bất kỳ điều gì trong các bộ phim, thì cách giải thích mang tính ma quỷ về hình sao năm cánh vẫn là không chính xác về mặt lịch sử. Ý nghĩa nữ tính ban đầu là chính xác, nhưng tính biểu tượng của hình sao năm cánh đã bị bóp méo qua cả thiên niên kỷ.
Trong trường hợp này, là thông qua chém giết".
"Tôi không chắc là tôi hiểu những điều ông nói".
Langdon liếc nhìn cây thánh giá của Fache, không biết làm thế nào để diễn đạt ý tiếp theo của mình: "Giáo hội, thưa ông.
Các biểu tượng thường rất lâu bền nhưng biểu tượng hình sao năm cánh đã bị Giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã cổ thay đổi.
Như một phần trong chiến dịch của Vatican nhằm tiêu diệt tôn giáo vô thần và cải đạo cho dân chúng sang Thiên Chúa giáo, Giáo hội đã thực thi một chiến dịch bôi nhọ các nam thần và nữ thần ngoại đạo, biến những biểu tượng thần thánh của họ thành ma quỷ".
"Tiếp tục đi".
Điều này rất phổ biến trong thời loạn", Langdon tiếp tục. "Một thế lực mới nổi lên sẽ lấy các biểu tượng đang tồn tại và làm mất giá trị của chúng qua thời gian nhằm xóa đi ý nghĩa của chúng. Trong trận chiến giữa các biểu tượng vô đạo và biểu tượng của Thiên Chúa giáo, những người vô đạo đã thua; chiếc đinh ba của thần biển trở thành cái chĩa của quỷ, cái mũ nhọn của bà già thông thái trở thành biểu tượng của một phù thủy, và hình sao năm cánh của thần Vệ nữ trở thành một dấu hiệu của ma quỷ". Langdon dừng lại. "Thật không may, quân đội Mỹ cũng hiểu sai hình sao năm cánh; giờ đây nó trở thành biểu tượng hàng đầu của chiến tranh. Chúng tôi vẽ nó trên tất cả các máy bay chiến đấu và gắn nó trên vai của mọi tướng lĩnh của chúng tôi". Chừng ấy điều xâm phạm đối với nữ thần tình yêu và sắc đẹp".
"Hay đấy", Fache hất đầu về phía cái xác nằm dang tay dang chân. "Còn vị trí của thi thể thì sao? ông nghĩ gì về điều đó?".
Langdon nhún vai: "Vị trí chỉ đơn giản là để củng cố thêm gợi ý về hình sao năm cánh và tính nữ thiêng liêng".
Vẻ mặt Fache sa sầm: "Làm ơn nhắc lại giùm?".
"Bản sao. Việc nhắc lại một biểu tượng là cách đơn giản nhất để tăng cường ý nghĩa của nó. Jacques Saunière đặt cơ thể mình trong tư thế của hình sao năm cánh". Nếu một hình sao năm cánh là tốt, thì hai là tốt hơn".
Mắt Fache nhìn theo năm đỉnh tay, chân, đầu của Saunière trong khi tay ông ta vuốt mái tóc trơn bóng. "Một sự phân tích thú vị". Ông ta dừng lại. "Còn tình trạng lõa thể" Ông ta làu bàu khi nói từ này, vẻ ghê tởm cơ thể của một người đàn ông có tuổi. "Tại sao ông ấy lại cởi hết quần áo ra?".
Câu hỏi quá hay, Langdon nghĩ. Ông cũng đã tự hỏi như vậy từ lúc đầu tiên nhìn thấy bức ảnh polaroid. Phỏng đoán có lý nhất của ông là một hình người khỏa thân là một dạng biểu hiện khác của thần Vệ nữ - nữ thần của dục tính con người. Mặc dù văn hóa hiện đại đã xóa đi đa phần quan niệm gắn Vệ nữ với sự hòa hợp thể xác nam - nữ, một con mắt sắc bén về từ nguyên vẫn sc phát hiện ra dấu tích ý nghĩa ban đầu của Vệ nữ trong từ venereal (1). Langdon quyết định không nói đến điều đó.
"Ông Fache, tôi thực sự không thể nói cho ông biết tại sao ông Saunière lại vẽ biểu tượng đó trên người mình hay tại sao ông ấy lại xếp mình theo tư thế đó, nhưng tôi có thể nói với ông rằng một người như Jacques Saunière ắt coi hình sao năm cánh là biểu tượng của nữ thần. Sự tương quan giữa biểu tượng này và tính nữ thiêng liêng được biết đến rộng rãi bởi các sử gia tôn giáo và các nhà ký tượng học".
"Tốt. Còn chuyện ông ấy dùng máu mình làm mực viết?".
"Chắc chắn là do ông ấy không có gì khác để viết".
Fache im lặng trong giây lát: "Thực ra tôi chắc ông ấy dùng máu như vậy để cảnh sát có thể theo một số quy trình pháp lý".
"Xin lỗi, tôi không hiểu?".
"Hãy nhìn tay trái của ông ấy".
Mắt Langdon rà suốt chiều dài cánh tay cho đến bàn tay trái trắng trợt của ông phụ trách bảo tàng nhưng chẳng thấy gì.
Không chắc chắn, ông đi vòng quanh xác chết và cúi xuống, ngạc nhiên nhận thấy ông ta nắm chặt một chiếc bút dạ lớn.
"Nó ở trong tay Saunière khi chúng tôi tìm thấy ông ta".
Fache nói, rời khỏi Langdon và đi vài mét về phía một cái bàn xách tay bầy đầy các dụng cụ điều tra, các dây cáp, và các đồ điện. "Như tôi đã nói với ông", ông ta nói, lục tung cái bàn, chúng tôi không động vào bất kỳ vật gì. Ông có biết loại bút này không?".
Langdon quỳ xuống thấp hơn để nhìn thấy nhãn của cây bút.
STYLO DE LUMLÈRE NOIRE.(2)
Ông ngạc nhiên ngước nhìn.
Bút dùng tia tử ngoại dạng đặc biệt của bút dấu ban đầu được thiết kế bởi các bảo tàng, các nhà phục chế, và cảnh sát chống hàng giả để vạch những dấu không thể nhìn thấy trên hiện vật. Bút này viết bằng mực huỳnh quang làm từ cồn, không ăn mòn và chỉ có thể nhìn thấy dưới tia tử ngoại. Ngày nay, nhân viên bảo quản của các bảo tàng mang theo bút này trên đường đi kiểm tra hàng ngày để đánh những "dấu kiềm" vô hình trên khung của các bức tranh cần sửa chữa.
Khi Langdon đứng lên, Fache tiến về phía bóng đèn và tắt đi. Căn phòng chìm vào bóng tối.
Loá mắt trong chốc lát, Langdon cảm thấy một nỗi hồ nghi dâng lên. Bóng Fache hiện ra, rực trong ánh hồng nhạt. Ông ta tiến đến, mang theo một ngọn đèn xách tay, bao quanh ông ta một vầng tím.
"Như ông có thể cũng biết", Fache nói, "Mắt ông ta phát quang trong ánh sáng màu tím, cảnh sát dùng tia tử ngoại nghiên cứu hiện trường vụ án để tìm máu và các chứng cứ pháp lý khác. Vì thế ông có thể tưởng tượng ra sự kinh ngạc của chúng tôi…". Ông ta chĩa phắt ngọn đèn về phía xác chết.
Langdon nhìn xuống và giật lùi lại vì sốc.
Tim ông đập dồn dập khi nhìn vào cảnh tượng kỳ quái đang rực lên trước mắt trên sàn gỗ. Những dòng chữ nguệch ngoạc cuối cùng của ông phụ trách bảo tàng, viết bằng mực phát quang, giờ chuyển sang màu tía bên cạnh xác ông. Khi Langdon nhìn vào những dòng chữ lờ mờ, ông cảm thấy màn sương bao trùm buổi tối hôm nay đang dày thêm lên..
Langdon đọc lại lời nhắn và ngước nhìn Fache: "Điều này nghĩa là thế nào?".
Mắt Fache long lanh: "Điều đó, thưa ông, chính xác là câu hỏi mà ông có mặt ở đây để giải đáp".
Cách đó không xa, trong văn phòng của Saunière, trung úy Collet đã trở lại Louvre và đang lúi húi trên bảng điều khiển âm thanh đặt trên cái bàn đồ sộ của ông phụ trách bảo tàng.
Ngoại trừ cái mô hình chàng hiệp sĩ thời trung cổ, kỳ bí và giống như rô-bốt, đang nhìn chằm chằm vào mình từ góc bàn, Collet thấy rất thoải mái. Anh điều chỉnh ống nghe và kiểm tra đầu vào trên hệ thống ghi âm đĩa cứng. Cả hệ thống đều chạy tốt. Micro hoạt động hoàn hảo và tiếng trong veo.
Le moment de virite(3) , anh lẩm bẩm.
Mỉm cười, Collet nhắm mắt và ngồi yên lắng nghe phần còn lại của cuộc đối thoại đang được ghi âm trong Hành Lang Lớn.

Chú thích
(1) Liên quan đến giao hợp
(2) Bút máy dùng tia tử ngoại.
(3) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Thời điểm của chân lý

abele is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn
Đã có 9 thành viên gửi lời cám ơn đến abele vì bạn đã đăng bài:
arlenemy18 (12-02-2023), aureliayc1 (19-01-2023), Dennisdam (16-01-2022), josejd1 (16-12-2022), kellyzv4 (23-03-2023), MyLove (31-10-2007), Robmte (20-10-2022), TimothyVab (16-01-2022), ysiizcmp62 (08-10-2015)
Old 30-08-2006, 08:16 PM   #9
Hồ sơ
abele
Member
 
Tham gia ngày: Apr 2005
Cư ngụ: Long An
Tuổi: 43
Số bài viết: 50
Tiền: 25
Thanks: 0
Thanked 32 Times in 13 Posts
abele is an unknown quantity at this point
Default

Trích:
Originally posted by foureyes@Aug 24 2006, 06:14 AM
Truyện này hay quá hén. Phim thì dở ẹt
[snapback]10228[/snapback]
Đúng rồi, phim dở là phải. Truyện dài và nhiều chi tiết như vậy mà đem tóm gọn vào một tiếng rưởi đồng hồ thì không thể nào chuyển tải hết. Đọc truyện đôi chỗ còn cảm thấy khó hiểu - vì những khái niệm về tôn giáo, những quy luật giải mã... - phải đọc lại. Xem phim thấy giáo sư Langdon và Sophie giải mã mà chả thấy hấp dẫn chỗ nào cả. Nếu không đọc sách trước tui cũng chả hiểu sao Sophie tìm ra được chỗ giấu cái chìa khóa.
Vậy mà người ta cũng xúm nhau đi coi. Thiệt....pótay.com
abele is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn
Đã có 2 thành viên gửi lời cám ơn đến abele vì bạn đã đăng bài:
MyLove (31-10-2007), psydayDrype (31-10-2015)
Old 05-09-2006, 06:42 PM   #10
Hồ sơ
abele
Member
 
Tham gia ngày: Apr 2005
Cư ngụ: Long An
Tuổi: 43
Số bài viết: 50
Tiền: 25
Thanks: 0
Thanked 32 Times in 13 Posts
abele is an unknown quantity at this point
Default

Chương 7
Nơi ở khiêm tốn trong nhà thờ Saint Sulpice nằm trên tầng hai phía bên trái ban-công của dàn đồng ca. Một dãy hai phòng với nền đá và những đồ đạc tối thỉểu là nơi ở của Xơ Sandrine Bieil hơn mười năm qua. Tu viện gần ngay cạnh là chỗ ở trước đây của bà, nhưng bà thích sự yên tĩnh của nhà thờ và tự trang bị thêm cho mình một cái giướng, điện thoại và một lò sưởi nhỏ.
Là quản lý hành chính của nhà thờ, Xơ Sandrine chịu trách nhiệm lo liệu mọi khía cạnh phi tôn giáo như duy tu bảo dưỡng chung, thuê người giúp việc và hướng dẫn viên, giữ an toàn cho toà nhà sau giờ làm việc, đặt mua hàng dự trữ như rượu lễ và bánh thánh.
Đêm nay, đang ngủ trên chiếc giường nhỏ, bà bị tiếng điện thoại kêu lanh lảnh đánh thức. Mệt mỏi, bà nhấc ống nghe nhận điện.
"Xơ Sandrine, Nhà thờ Saint Sulpice".
"Xin chào Xơ" người đàn ông nói tiếng Pháp.
Xơ Sandrine ngồi dậy. Mấy giờ rồi? Bà nhận ra giọng bề trên của mình mặc dù trong mười lăm năm qua, bà chưa bao giờ bị ông đánh thức. Trưởng tu viện là một người ngoan đạo sâu sắc!
Ông thường về nhà và lên giường đi ngủ ngay sau lễ chầu.
"Ta xin lỗi nếu ta đánh thức Xơ", trưởng tu viện nói, giọng ông nghe yếu và bồn chồn. "Ta có một việc phải nhờ Xơ. Ta vừa nhận được một cú điện thoại tử một giám mục người Mỹ có thế lực. Có thể Xơ cũng biết ông ta? Manuel Aringarosa?".
"Người đứng đầu Opus Dei phải không ạ?". Tất nhiên là con biết ông ta. Ai trong Giáo hội không biết ông ta chứ? Giám mục đoàn bảo thủ của Aringarosa đã trở nên hùng mạnh trong những năm gần đây. Sự thăng tiến của họ đạt được bước nhảy vọt bắt đầu từ năm 1982 khi Giáo hoàng John Paul II bất ngờ nâng họ lên thành một "giám mục đoàn riêng của Giáo hoàng", phê chuẩn chính thức mọi thông tục của họ. Thật đáng ngờ, việc thăng cấp của Opus Dei xẩy ra vào đúng năm cái giáo phái giàu có chuyển gần một tỉ đô la vào Viện Công trình tôn giáo của Vatican - thường được gọi là Ngân hàng Vatican - giúp nó thoát khỏi một cuộc phá sản phiền toái. Hành xử thứ hai cũng gây ngạc nhiên: Giáo hoàng đã đặt người sáng lập Opus Dei trên "đường tắt "đến chức vị thánh, rút ngắn thời gian chờ đợi phong thánh thường là cả thế kỷ xuống còn hai mươi năm. Xơ Sandrine không khỏi cảm thấy địa vị cao của Opus Dei ở Roma là đáng ngờ, nhưng ai mà dám tranh cãi với Tòa Thánh.
"Giám mục Aringarose gọi đến nhờ ta một việc", linh mục nói với bà, giọng e ngại. "Một trong số những môn đồ của ông ấy đang ở Paris tối nay…".
Khi Xơ Sandrine nghe thấy yêu cầu kỳ lạ đó, bà càng cảm thấy khó hiểu: "Con xin lỗi, cha nói là chuyến viếng thăm của thành viên Opus Dei không thể chờ đến sáng mai hay sao?".
"Ta e là không. Chuyến bay của anh ta sẽ cất cánh lúc sáng sớm. Anh ta luôn mơ ước được ngắm nhìn nhà thờ Saint-Sulpice".
"Nhưng nhà thờ ngắm ban ngày ắt thú vị hơn nhiều. Những tia nắng mặt trới chiếu qua những mắt kính, những cái bóng được phân độ trên đồng hồ mặt trời cái ấy mới làm cho Saint-Sulpice trở thành có một không hai".
"Xơ, ta đồng ý với Xơ, nhưng nếu Xơ để cho anh ta vào tối nay, ta sẽ coi đó là một ân huệ cá nhân đối với ta. Anh ta có thể có mặt ở đó lúc… lúc một giờ được chứ? Tức là khoảng hai mươi phút nữa".
Xơ Sandrine cau mày: "Tất nhiên. Con xin vui lòng".
Linh mục cảm ơn bà rồi gác máy.
Bối rối, Xơ Sandrine ngồi trong cái giường ấm áp thêm một chút, cố gắng tống khứ cơn buồn ngủ. Cơ thể sáu mươi tuổi của bà không tỉnh giấc nhanh như trước đây được nữa, mặc dù cuộc điện thoại đêm nay chắc chắn đã đánh thức các giác quan của bà. Opus Dei luôn làm bà khó chịu. Ngoài việc giáo đoàn này một mực theo những nghi lễ huyền bí của sự tự hành xác, quan điểm của họ về phụ nữ tiến bộ nhất cũng chỉ ở mức trung cổ.
Bà đã bị sốc khi biết rằng những môn đồ nữ bị buộc phải lau dọn phòng ở của nam giới không công trong khi đám này dự lễ chầu; phụ nữ ngủ trên sàn gỗ cứng, trong khi đàn ông có những chiếc chiếu rơm; và phụ nữ buộc phải chịu thêm những quy định bổ sung trong hành xác… tất cả những cái đó xem như hình phạt bổ sung vì tội tổ tông truyền. Có vẻ như việc Eva cắn vào quả táo tri thức là một món nợ mà phụ nữ bị kết án phải trả đời đời. Thật đáng buồn, trong khi hầu hết các nhà thờ Thiên Chúa giáo đang dần dần đi theo con đường đúng đắn với sự tôn trọng phụ nữ, thì Opus Dei lại đe dọa đảo ngược tiến trình. Mặc dù vậy, Xơ Sandrine đã nhận lệnh.
Ra khỏi giường, bà từ từ đứng dậy, ớn lạnh vì sàn đá dưới đôi chân trần. Khi cảm giác ớn lạnh ngấm vào da thịt, bà cảm thấy một nỗi lo sợ bất ngờ.
Linh cảm của phụ nữ?
Là con chiên của Chúa, Xơ Sandrine biết là phải tìm sự yên bình trong tiếng nói xoa dịu của linh hồn bà. Tuy nhiên, tối nay, những tiếng nói ấy cũng im lặng như nhà thờ trống không bao quanh bà.

(nguồn vnthuquan.net)
abele is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn
Đã có 2 thành viên gửi lời cám ơn đến abele vì bạn đã đăng bài:
MyLove (31-10-2007), norauw18 (19-11-2022)
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Website sử dụng phần mềm vBulletin phiên bản 3.6.8
do Công ty TNHH Jelsoft giữ bản quyền từ 2000 - 2024.
Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 06:35 AM.

Hội CHS Lê Quý Đôn-Long An giữ bản quyền nội dung của website này

Tự động[F9]TELEX VNI VIQR VIQR* TắtKiểm chính tảDấu cũ
phan mem quan ly ban hang | thuê vps