View Single Post
Old 13-02-2007, 02:21 PM   #2
Hồ sơ
MarsNIIT
1/2 bán cầu bắc cô đơn
 
MarsNIIT's Avatar
 
Tham gia ngày: Sep 2006
Số bài viết: 1,334
Tiền: 25
Thanks: 151
Thanked 658 Times in 380 Posts
MarsNIIT is on a distinguished road
Default Ðề: Ý nghĩa ngày Tết và các phong tục

Câu đối Tết

Để trang hoàng nhà cửa và để thưởng xuân, trước đây từ các nho học cho tới những người bình dân vẫn còn trọng tục treo "câu đối đỏ" nhân ngày Tết. Những câu đối này được viết bằng chữ nho (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên thường được gọi chung là câu đối đỏ. Những chữ nghĩa ở các câu đối này thường là những chúc tụng nhân năm mới, chẳng hạn như:

- Phước thâm tự hải (hạnh phúc nhiều sâu như biển)

- Lộc cao như sơn (của cải nhiều cao như núi)

Hay là:

- Thiên tăng tuế nguyệt, nhân tăng thọ (Trời đất gia tăng ngày tháng ví như con người mỗi năm tăng thêm tuổi thọ)

- Xuân mãn càn khôn, phúc mãn đường (mùa xuân về đầy trong Trời Đất ví như hạnh phúc đầy nhà)

Câu đối cũng còn được gọi là liễn. Liễn thường là những dải giấy màu đỏ hay hồng đào, hai đầu dải giấy có làm trục bằng gỗ hay bằng tre để khi treo lên thì dải câu đối được ngay ngắn. Cũng có khi liễn không cần có trục và chỉ là những giải giấy để tiện dán vào những nơi cần treo như ở hai bên bàn thờ, các cột nhà cửa, cổng hay ngõ...

Trước đây ở thôn quê, mỗi khi Tết đến, người ta còn cẩn thận dán liễn đỏ ở nơi các cửa chuồng lợn, trâu, bò hoặc ở thân cây dừa, nhãn, ổi, na... để ngụ ý cầu mong cho mọi sự được tốt đẹp như lợn, trâu, bò hay ăn chóng lớn, sinh đẻ đầy đàn... các cây thì sai trái. Những nhà không có đủ khả năng và phương tiện viết câu đối ăn Tết thường phải nhờ những cụ đồ Nho chuyên viết và bán những câu đối Tết.

Các văn nhân nhân dịp Tết cũng thường làm câu đối để bày tỏ ý chí của mình hoặc chỉ trích những thói hư tật xấu của người đờ. Chẳng hạn như:

Thiên hạ xám rồi còn đốt pháo
Nhân tình bạc thế, lại bôi vôi
(Trần Tế Xương)

Hay:
Tối ba mươi khép cánh càn khôn
Ních chặt lại kẻo ma vương đưa quỷ tới
Sáng mồng một, lỏng theo tạo hóa
Mở toang ra, cho thiếu nữa đón xuân vào
(Hồ Xuân Hương)








Đêm ba mươi

Đêm quan trọng nhất của năm cũ và năm mới là đêm 30 tháng Chạp (hay củ mật), tức đêm 30 Tết. Sở dĩ gọi là "củ mật" vì vào độ gần Tết, thường hay có trộm cướp cho nên nhà nào cũng phải phòng bị hết sức cẩn thận. Đặc biệt ở miền Bắc đêm 30 Tết, trời đất một màu đen, có khi hai người đi cạnh mà không nhìn thấy nhau, cho nên tục ngữ có câu "Tối như đêm 30 Tết" là vậỵ

Xưa, đêm 30 Tết cũng còn là thảm cảnh của những người phải trốn nợ cuối năm vì không có tiền trẻ cho chủ nợ Thường thì chủ nợ cố đòi cho được vào cuối năm vì đầu năm mới "kiêng" đòi nợ, sợ "giông" cả năm. Bởi vậy người thiếu nợ phải trốn nợ cho tới khi nào gần giao thừa mới dám trở về nhà... Chính tục đòi nợ cuối năm mà người ta thường nói "giàu có ba mươi Tết mới hay".

Ngoài ra, đêm 30 Tết, theo tục xưa, là đêm quan trọng không kém ngày đầu năm. Ngay từ chiều ba mươi, người ta đã làm "cơm cúng" gia tiên và tối ba mươi là "đêm không ngủ" để chuẩn bị đón mừng Tổ Tiên về ăn Tết và đón giao thừa (tiễn năm cũ và mừng năm mới). Tục này đã có từ lâu đời và gọi là Lễ Thủ Tuế.








Chúc Tết và mừng tuổi

Sáng sớm mồng một Tết hay ngày "Chính đán", mọi sinh hoạt ngừng lại, các con cháu tụ họp ở nhà tộc trưởng để lễ Tổ Tiên chúc tết ông bà, các bậc huynh trưởng và mừng tuổi lẫn nhau. Theo tục lệ, cứ năm mới tới, kể cả người lớn lẫn trẻ con, mỗi người tự nhiên tăng lên một tuổi. Bởi vậy ngày mồng một Tết là ngày con cháu "chúc thọ" ông bà và các bậc cao niên; và các người lớn thì "mừng tuổi" các trẻ em một cách cụ thể bằng những đồng tiền mới bỏ trong những "phong bao". Tục này ở miền Nam quen gọi là "lì xì". Tiền mừng tuổi mà mình nhận được trong ngày tết gọi là "Tiền mở hàng". Xưa còn có lệ cho tiền phong bao với số tiền lẻ (chứ không phải là tiền chẵn). Ngụ ý tiền này sẽ sinh sôi nảy nở thêm nhiều.

Về chúc Tết, trong ba ngày Tết, những thân bằng quyến thuộc, hoặc những người phải chịu ơn người khác thường phải đi chúc Tết và Mừng Tuổi gia chủ; sau đó xin lễ ở bàn thờ Tổ Tiên của gia chủ. Tục này ngày nay ít còn, vì thì giờ eo hẹp, đường xá xa xôi cho nên đã được thay thế bằng những thiệp "Chúc Mừng Năm Mới" hay "Cung Chúc Tân Xuân"






Kiêng kỵ trong ngày Tết

Đặc biệt ngày Tết người ta kiêng không dùng những từ hoặc hành động xấu có thể đem lại sự không may cho mình. Sự xui hay không may này sẽ làm cho mình bị "giông" cả năm.

Đầu năm mới, người ta tránh chửi bới, giận dữ hay cãi lộn. Người ta cũng cố tránh làm đổ vỡ những đồ vật. Vận quần áo đen hay trắng nhân năm mới là xui vì đó là màu của tang tóc, tối tăm. Người ta tránh không đòi nợ (hay bắt nợ). Ngày tết, mọi sinh hoạt thường nhật đều đình chỉ, người ta "kiêng" không quét nhà và đổ rác vì sợ sẽ đổ hay vứt bỏ mất những sự may mắn tốt lành tới nhà mình trong năm mới. Thường thường người ta phải đợi đến ngày "động thổ" mới tiếp tục đổ rác và quét nhà!

Đặc biệt, nếu có tang thì không nên đi xông nhà hay đi mừng tuổi người khác (để tránh cho người khác không bị xui như mình). Cũng vậy, đàn bà có thai thường "kiêng" không đi đâu cả trong những ngày đầu năm mới vì tục ngữ có câu: "sinh dữ, tử lành!"

Ngày xưa, ở chốn thôn quê còn có tục "kiêng" để cối xay gạo trống không vào những ngày đầu năm. Bởi vậy, người ta phải đổ một ít lúa vào cối xay ngụ ý cầu mong năm mới lúc nào cũng có lúa gạo sung túc.








Tục hoá vàng và lễ khai hạ

"Hoá vàng" là đốt các đồ "vàng mã" mà người ta bày cúng trên bàn thờ gia tiên trong dịp Tết.

"Vàng mã" thường là: giấy vàng, giấy bạc (là một thứ tiền giả vàng và bạc lá làm bằng giấy) vàng thoi (những thoi vàng giả làm bằng giấy), bạc thoi... Người ta tin rằng nếu đốt các đồ vàng mã này đi thì người chết ở thế giới bên kia mới nhận được những lễ vật của mình dâng cúng. Có người còn cẩn thận đổ một chén rượu cúng vào đống tro vàng mã để những đồ cúng không bị thất lạc khi chuyển cho người nhận! Cẩn thận hơn, người ta còn hơ các cây mía tươi trên ngọn lửa hóa vàng để các cụ (tức Tổ tiên) có gậy chống về... âm phủ!

Ngày hoá vàng không nhất định. Thường thì người ta hoá vàng vào ngày mồng 3 Tết, có nhà để đến mồng 7 hay mồng 10. Sau ngày lễ người đã khuất về bên kia thế giới, mọi sinh hoạt trong nhà dần dần trở lại bình thường. Lễ hạ nêu thì được cử hành vào ngày khai hạ mồng 7 tháng Giêng âm lịch. Sau ngày này thì xem như hết Tết.






Tục trồng cây nêu

Một trong những cổ tục khó thiếu trong những ngày Tết của Việt Nam là cây nêu.

Nêu là một cây tre hay cây bương (một loại tre lớn rỗng ruột, thường dùng làm cột nhà hay máng nước). Ở ngọn cây tre hay bương này người ta đeo một vòng tròn nhỏ có buộc nhiều thứ (tùy theo từng điạ phương) như vàng mã; bùa trừ tà; cành xương rồng; bầu rượu bện bằng rơm; hình cá chép bằng giấy (để Táo quân dùng làm phương tiện về trời; giải cờ vải tây, điều (màu đỏ), đôi khi người ta còn cho treo lủng lẳng những chiếc khánh nhỏ bằng đất nung nữa.... Mỗi khi gió thổi, những khánh đất va chạm nhau tại thành những tiếng kêu leng keng nghe rất vui tai... Người ta tin rằng những vật treo ở cây nêu, cộng thêm những tiếng động của những khánh đất, là để báo hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi đây là nhà có chủ, không được tới quấy nhiễu...
Đặc biệt vào buổi tối, người ta treo một lồng đèn ở cây nêu để Tổ Tiên biết đường mà về nhà ăn Tết với con cháu. Trước đây, vào đêm trừ tịch cũng như ngày mồng một Tết, người ta còn đốt pháo ở cây nêu để mừng Tổ Tiên về ăn tết, mừng năm mới tới, xua đuổi ma quỷ hoặc những điều không may.v.v... Ở miền Bắc, nêu thường được dựng vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch, là ngày Táo quân về trời. Chính vì từ ngày này cho tới đêm giao thừa, vắng mặt Táo công, ma quỷ thường nhân cơ hội này lẻn về quấy nhiễu, mà người ta phải trồng cây nêu để trừ tà....
MarsNIIT is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn
Đã có 4 thành viên gửi lời cám ơn đến MarsNIIT vì bạn đã đăng bài:
Igortqo (28-09-2022), psydayDrype (10-10-2015), uhfxvejx80 (21-06-2015), velmajt4 (03-02-2023)