View Single Post
Old 06-01-2009, 01:03 PM   #2
Hồ sơ
phanphuong
Super Moderator
 
phanphuong's Avatar
 
Tham gia ngày: Oct 2006
Số bài viết: 8,221
Tiền: 371
Thanks: 1,950
Thanked 7,352 Times in 2,060 Posts
phanphuong is on a distinguished road
Default 2- Sáu Tửng

Nhạc sư Vĩnh Bảo kể:
Ông Huỳnh Văn Sâm (Sáu Tửng)
Người gốc Gò Công, nghiện á-phiện, thân phụ của tay trống có hạng Huỳnh Anh và nữ ca sĩ Bạch Huệ.
Cái tên Huỳnh văn Sâm, nhứt là cái tên Sáu Tửng, thì không xa lạ gì đối nhạc sư nhạc sĩ miền Nam lẩn Trung và Bắc, kể ca những người yêu nhạc. Nhiều nhạc sĩ đàn Kìm ảnh hưởng đến lối đàn của ông và đàn giông giống ông.
Sở trường của ông là cây đàn Kìm và Xến. Đàn Kìm, đàn Xến, thay vì tay trái bấm dây đủ 4 ngón (trỏ, giữa, áp út và út) như vậy mới nhấn được chữ đàn có gân, chuyền chạy chữ mới nhanh. Đằng nầy ông chỉ sử dụng 2 ngón (trỏ và giữa), lướt một cách nhanh nhẹn, lưu loát trên phím đàn không thua gì người sử 4 ngón.
Tôi quen ông vào năm 1930, lúc ấy ông đàn Kìm chánh cho gánh Hồng Nhựt hát tại Cao Lãnh (quê của tôi) và tôi được dịp nghe ông đàn Kìm trên dây Hò Ba cho chị Hai Thân và chị Sáu Liềng (danh ca Cao Lãnh) ca, và dây Bắc Oán cho Anh Bé ở Nha Mân (Cái Tàu Hạ - đồng hương với danh ca Tám Thưa -) ca Vọng cổ và Tây Thi hơi Quảng.
Thời điểm nầy tôi không thấy nhạc sĩ đàn Kìm nào sử dụng hai loại dây Hò Ba và Bắc Oán nầy, và riêng tôi, tôi cho rằng ông Sáu Tửng là người sáng chế.
Năm 1935, xuyên qua dĩa nhựa Béka, tôi có nghe ông độc tấu Tây Thi Hơi Quảng đàn Kìm trên dây Bắc Oán.
Từ năm 1928, ông luôn luôn là tay đàn Kìm chánh cho nhiều gánh hát Cải lương như:
Văn Hí Ban, Võ Hí Ban, Phước Cương, Trần Đắt, Hồng Nhựt, Thanh Niên, Phụng Hảo, đàn thu rất nhiều dĩa nhựa như Béka, Pathé, Asia, Hoành sơn, Hồng Hoa, Việt Hải, Tri âm, Kim Khánh….
Tuồng hát nào mà Cô Bảy Phùng Há có vai, thì đàn Kìm nhứt định phải là Sáu Tửng, Cô mới chịu, y hệt như ca sĩ Thành Công, ca thì phải có Hai Long đệm đàn Guitare-mando.
Thập niên 1940, ông ra Bắc dạy đàn Kìm.
Năm 1955, ông Ba Quan (Chủ tiệm hột xoàn Ba Quan Chợ cũ), mời ông, Duy Lân, Tám Thưa, Việt Hùng, Cô Tư Bé, và nhạc sĩ Nguyễn thế Huyện (Tư Huyện) (đàn Cò và Violon) sang Pháp làm dĩa nhựa mang nhãn hiệu Kim Khánh.
Năm 1960, tối ông đàn cho gánh hát, trưa quay về Trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ để cùng hai nhạc sĩ Ba Dư (đàn Tranh), Chín Trích (đàn Cò) đệm cho học sinh lớp Sân Khấu ca diễn.
Lối đàn Kìm và Xến của ông rất là độc đáo. Tiéng đàn phát ra nghe rất anh hùng và tự tin. Chữ đàn sắp xếp sắc sảo, câu cú tròn vành rõ nghĩa, hơi nào ra hơi nấy, tiết tấu mắc mỏ, mùi, dễ gợi cảm cho người cùng đàn. Trong hòa tấu, lối đàn rất là sôi động, ra vô, quăng bắt của ông rất là mạch lạc, tạo hào hứng cho người cùng đàn. Có những lúc đang đàn, ông đơn phương ngưng nghỉ, rồi một lát sau đó, bất thần nhào đại vô, làm cho người cùng đàn giựt mình, có khi bị rơi đàì. Mỗi lần có dịp hòa đàn với ông, tôi luôn bắt gặp nơi ông có mốt số câu đàn mới, lạ và hay. Có lần ông tâm sự với tôi: “Về đêm, sau vãn hát, mọi người lo đi ngủ, còn tôi thì sau khi kéo vài điếu (ông nghiện á phiện) tôi ôm đàn Kìm, chế ra nhửng câu đàn mới”. Cái sợ nhứt của tôi là đàn vào đêm thanh vắng, chữ đàn ma nhấn chưa chín, tai mình nghe rõ mồn một. Không như Vĩnh Bảo có cách ghi ra giấy, mổi khi sáng tác ra câu nào thì tôi ôm đàn, đàn đi đàn lại cho thật thuộc câu nấy, nếu không thì ngày mai lai quên mất.
Băng Nam Bình I, qua nhửng hòa tấu: Ngũ Đối Hạ, Lưu Thủy Trường, 6 câu Vọng cổ nhịp 32 (Sáu Từng (Kìm), Chín Trích (Cò), Vĩnh Bảo (Tranh), người nghe có thể nhận thấy lối đàn độc đáo của ông Sáu Tửng.
Năm 1938 tôi có dịp đàn 20 câu Vọng cổ nhịp 16 vô dĩa nhựa Béka (Năm Nghĩa (Trà Ôn) đàn Tranh, Ba Cân (Xóm Gà) đàn Kìm, tôi đàn Gáo, Cô Ba Thiệt (chị ca sĩ Năm Cần thơ) ca).
Thường khi 20 câu Vọng cổ nhịp 16 gói gọn trong 2 dĩa. Mỗi mặt qui định là 3 phút (không dư một giây). Dĩa 1, mặt A: Rao, và câu 1, 2, 3 và 4, mặt B: câu 5, 6, 7, 8, 9, 10. Dĩa 2, mặt A: câu 11, 12, 13, 14, 15 câu, mặt B: 16, 17, 18, 19, 20.
Phần đông nhạc sĩ phải đàn đi đàn lại nhiều mới xong một mặt dỉa. Riêng ông Sáu Tửng, ông canh trường tống (tempo) rất chính xac. Chỉ một keo là ăn tiền.
Ông sống nghèo tại hẻm Taberd (Nguyễn Du). Có lần tôi đề nghị ông để tôi nhờ Bác sĩ quen thân (Bác sĩ Phạm kim Tương) giúp ông cai á phiện. Ông đáp lại tôi bằng một câu xanh rờn: “Vĩnh Bảo phải biết, Sáu Tửng sống là để hút và đàn”.
Không bao giờ tôi quên được lần cuối cùng găp ông tại nhà may Nguyễn văn Phú ở đường d’Ormay Sàigòn vào năm 1980. Đêm ấy có tổ chức đàn ca tận trên lầu bốn. Thính giả phần đông là cao tuổi và tri âm. Tay đờn thì có nhạc sĩ Thanh Tuyền đàn Kìm, Tư Huyện đàn Cò và violon, tôi đàn Tranh, 2 Cô Thanh Trang và Thanh Hoa ca. Sở dỉ không mời ông Sáu Tửng vì anh em ngại cho sức khỏe của ông.
Nhưng bất ngờ ông tự động đến, vạnh bên là cô ca sỉ Huệ Nhi dìu ông lên lầu. Gặp ông tôi rất mừng bởi có tay đàn ưng ý. Nhưng vì thương và lo cho sức khỏe của ông, tôi trách ông đến làm chi. Trước mặt mọi người ông nói: Dù không đựoc mời, nhưng tối cố gắng đến cốt là để nghe Vĩnh Bảo đàn. Tôi đỡ lời: anh Sáu, anh có lạ gì với tiếng đàn của tôi?. Bắt đầu đàn, ông ôm đàn Kìm rao trước, Tranh, violon cùng rao theo, cô Thanh Trang nói lối. Khi vào Vọng cổ, Ông ngưng đàn, nghẻo đầu tựa vào vành đàn, nhắm mắt nghe. Tôi thầm nghĩ rằng từ đây sẽ không còn dịp nghe tiếng đàn Sáu Tửng hay cùng hòa đàn với ông nữa. Đúng vậy, một tuần sau nghe tin ông qua đời ….
Tôi quen với ông từ năm 1930 tại Cao lảnh. Nhửng dịp theo gánh lên hát ở Nam vang vào năm 1935, 1936, ông đến nhà tôi gần như hằng đêm sau khi vãn hát. Giữa ông và tôi có nhiều kỷ niệm khó quên.


Soạn giả Viễn Phương kể:
Nhạc Sư Sáu Tửng, đàn kìm.
Ông Sáu Tửng, tên thật là Huỳnh Văn Sâm, thân phụ của nhạc sĩ tân nhạc Huỳnh Anh và nữ ca sĩ Bạch Huệ.
Nhạc sĩ tân nhạc Huỳnh Anh là một tay trống hữu hạng, từng là nhạc trưởng ban nhạc ở các vũ trường Paramount (Chợ Lớn), vũ trường Kim Sơn, Arc en Ciel... Anh đã sáng tác bản nhạc "Mưa Rừng", bản nhạc chính trong vở tuồng cùng tên "Mưa rừng" của Hà Triều - Hoa Phượng.
Huỳnh Anh định cư ở Mỹ, có nhiều nhạc bản được thu thanh thu hình trên băng vidéo Thúy Nga.
Nữ ca sĩ Bạch Huệ là một danh ca cổ nhạc, chuyên ca những bài bản theo đúng mẫu mực cổ truyền. Cô Bạch Huệ không đi hát trên sân khấu cải lương mà chỉ ca trong các Ban tài tử cổ nhạc. Cô được các lò cổ nhạc mời làm giáo sư thị phạm, dạy ca các bản "Ba Nam, Sáu Bắc, Bảy Bản, Bát Bản" khi cô Ngọc Ánh mất, cô Bạch Hụê được mời làm giáo sư trường Quốc Gia Âm Nhạc, dạy ca cổ thay cho cô giáo sư cổ nhạc Ngọc Ánh.
Ông Sáu Tửng, quê ở tỉnh Gò Công. Cái tên Hùynh Văn Sâm thì còn xa lạ với các nhạc sĩ và cả khách mộ điệu cải lương, nhưng chắc chắn là các nhạc sĩ cổ nhạc và khán giả cải lương, những người thích đọc báo trang kịch trường đều biết và ái mộ người nhạc sĩ mang tên Sáu Tửng.
Sở trường của ông Sáu Tửng là đờn cây đàn Kìm và đàn Sến. Ông chỉ dùng hai ngón trỏ và giữa tay trái để bấm dây bỏ ngón thay vì phải bấm bốn ngón như mọi người, tuy vậy vẫn nhanh nhẹn, tiếng đờn sắc sảo như người dùng 4 ngón để bấm phím.
Ông chuyên đàn Kìm chánh cho một số đoàn hát "Đại Ban" như Văn Hí Ban, Võ Hí Ban, Phước Cương, Trần Đắc, Hồng Nhựt, Phụng Hảo. Ngoài ra, ông còn đàn thu dĩa nhựa cho rất nhiều hãng dĩa: hãng Asia, Hồng Hoa, Lam Sơn, Continetal, Capitol, Quê Hương, Hoành Sơn, Tứ Hải... và đặc biệt các băng nhạc hòa tấu cổ nhạc Nam Bình 1, Nam Bình 2...
Thường thường người ta nhớ tên danh ca và bài ca, ít ai nhớ người nhạc sĩ nào đã đàn bản nhạc đó, dù nhờ ca bản nhạc đó mà ca sĩ nổi danh là danh ca. Người ta nhớ: "Sầu Vương Biên Ải" dĩa Hoành Sơn, tròng trắng chữ xanh do nghệ sĩ Út Trà Ôn ca, không nhớ dàn đờn cổ nhạc là những nhạc sĩ nào.
Anh Hồ Trường An khi viết về các danh ca làng dĩa nhựa cũng chỉ ghi:
- "Bóng chàng kỵ sĩ" dĩa Asia tròng đỏ chữ vàng do nghệ sĩ Thành Công ca.
- "Vó Ngựa Truy Phong" dĩa Tri Âm tròng trắng chữ xanh với các cô Bảy Phùng Hỵ, Tư Thanh Tùng, Kim Cúc và các nghệ sĩ Ba Vân, Năm Châu.
Nhưng nếu ai muốn biết tên nhạc sĩ thì truy nguyên, dò từ tên ca sĩ thì cũng có thể biết một phần nào. Vì một lẽ dễ hiểu là các danh ca thường thường chọn một nhạc sĩ bậc thầy ruột của mình để đờn cho mình hát hay ca dĩa, để nhờ người nhạc sĩ nầy luyện giọng, đưa hơi, giữ nhịp giúp cho. Tôi còn nhớ hễ vở tuồng hát nào mà cô Bảy Phùng Há có vai thì đàn kìm chánh nhất định phải là Sáu Tửng...
Cũng y như vậy các trường hợp sau đây:
- Ca sĩ Thành Công ca dĩa thì phải có Hai Long đàn Guitar mando...
- Hữu Phước ca thì phải có Ba Thu đàn Kìm, Ba Tý đàn tranh.
- Cô Kim Thoa hát sân khấu hay ca dĩa, đàn kìm chánh phải là anh Ba Diệp (thân phụ của nghệ sĩ Diệp Lang).
- Văn Hường ca dĩa thì phải có Văn Vĩ đàn guitare và Năm Cơ đàn kìm.
- Thanh Nga ca thì phải có nhạc sĩ Út Trong đàn kìm...
Tất nhiên là còn nhiều nhạc sĩ đàn chung vì có sự ăn ý rập ràng giữa các nhạc sĩ với nhau nữa thì tiếng đàn mới có nét đặc biệt, độc đáo như Năm Cơ (đàn kìm) hòa tấu với Văn Vĩ đàn guitare. Nhạc sĩ Năm Vĩnh đàn kìm đờn quăng bắt rất hay với nhạc sĩ Hai Thơm đàn violon... Nhạc sĩ Sáu Tửng, đờn kìm hòa tấu rất ăn ý với nhạc sĩ Chín Trích, đàn cò và nhạc sư Vĩnh Bảo, đàn tranh. Có khi thì thay ông Vĩnh Bảo là nhạc sĩ Bảy Bá Viễn Châu đàn tranh.
Năm 1950, ông Sáu Tửng cùng với các anh Duy Lân, Tám Thưa, Việt Hùng, cô Tư Bé và nhạc sĩ đàn cò và violon Tư Huyện sang Pháp đàn thu vào dĩa mang nhãn hiệu KIM KHÁNH (Chủ nhân là ông Bầu BA QUAN, chủ tiệm hột xoàn Ba Quan ở Chợ Cũ, Sài Gòn).
Năm 1960, ban đêm, nhạc sĩ Sáu Tửng đàn cho gánh hát Phụng Hảo của ông Bầu Nhơn; ban ngày ông Sáu Tửng cùng với hai nhạc sĩ Ba Dư (đàn tranh) và Chín Trích (thân phụ của nghệ sĩ Tú Trinh) đàn cò, lập thành ban cổ nhạc, chuyên đờn đệm cho lớp dạy ca cổ nhạc của trường Quốc Gia Âm Nhạc & Kịch Nghệ Sài Gòn, phân khoa Nghệ Thuật Sân Khấu.
Ông Sáu Tửng có một lối đàn rất độc đáo. Câu đàn được ông sắp chữ, sắp nhịp rất là sắc sảo, tạo ra một lối đàn lôi cuốn, quăng bắt, ra vô mạch lạc. Có những lúc đang khi đàn, ông lại ngưng nghỉ, để cho các cây đàn khác hòa tấu với nhau, rồi bất thần ông cho tiếng đàn kìm nhào đại vô với tay tim nghịch, tạo ra những âm thanh lạ tai, khiến cho bản đàn đang đàn thêm duyên dáng, hấp dẫn. Những nhạc sĩ nào đờn yếu nhịp hoặc lúc đờn tinh thần lơ đãng thì rất dễ bị rớt nhịp sai câu đồn. Đây không phải là cách đàn phá nhau mà là một sự ngẫu hứng, tạo ra những chữ đàn mới lạ, tạo ra tiết tấu, âm điệu hấp dẫn hơn. Người ta sẽ nhận thức ra lối đàn độc đáo của Sáu Tửng qua bản Ngũ Đối Hạ, Lưu Thủy Trường với tiếng đàn cò của Chín Trích, tiếng đàn tranh của Vĩnh Bảo, trong băng cổ nhạc Nam Bình 1.
Lối rao độc chiến đàn kìm trước khi vô vọng cổ và đàn chầu sau câu số 2 cũng khó có nhạc sĩ nào đờn bằng nhạc sĩ Sáu Tửng.
Ông Sáu Tửng cũng nổi danh là tay đàn Sến có một không hai.
Đặc tính của đàn Sến là có 13 phím, 2 dây, (sau này cải tiến 3 dây). Âm thanh của đàn Sến nghe trầm đục. Lối đờn đàn Sến thường phải dùng tiết tấu nhanh, đờn chạy chữ lẹ. Có đoạn tay tim đánh liên hồi gọi là Reo (trémolo) ở khoảng gần cuối câu để chuẩn bị qua câu sau, do đó có tính chất hùng hồn chớ không êm dịu như đàn kìm.
Điều lạ là gần như danh cầm nào cũng thích chuyên luyện hai loại đàn có tính đối nghịch nhau như ông Hai Phát: đàn cò và đàn Tam (âm thanh, âm hưởng, tiết tấu của hai cây đàn đó khác nhau).
Ông Sáu Tửng thì đàn kìm, khoan thai, sâu lắng, khác với tính chất đàn nhồi chữ dồn dập như khi ông đàn Sến.
Năm Cơ cũng chuyên hai cây đàn Kìm và đàn Sến.
Ông Tư Huyện thì đờn cây violon và thổi ống tiêu.
Sau vãng hát, khi hừng chí, ông Sáu Tửng ôm đàn, tự đàn cho một mình ông thưởng thức, tiếng đàn nhẹ nhàng, khoan thai... dây tơ rung động, sâu lắng nghe như hạt sương rơi, nghe như cơn gió thoảng...
Tôi nằm gần bên, lắng nghe lây cái buồn man mác, không tài nào ngủ được. Tôi chợt nhớ một giai thoại kỳ thú giữa người nhạc sĩ tài ba nầy và một nhà thơ lớn của thi ca Việt Nam: thi sĩ Xuân Diệu.
Theo lời kể của anh Năm Châu, thi sĩ Xuân Diệu có một thời gian ở nhà gần hãng xăng Mỹ Tho. Có lẽ lúc đó Xuân Diệu làm công chức trong Tòa số tỉnh Mỹ Tho (khoảng năm 1939 - 1940). Một đêm trăng sáng, thi sĩ Xuân Diệu mời anh Năm Châu, cô bảy Phùng Há và ông Sáu Tửng đến nhà chơi, hàn huyên tâm sự, ngâm thơ và đàn ca cho nhau thưởng thức. Tiếng đàn kim của ông Sáu Tửng đã làm cho Xuân Diệu sửng sốt, đê mê... Thi sĩ xuất thần, lấy bút tàu, chấm mực viết ngay trên thùng cây đàn kìm của Sáu Tửng mấy câu thơ:
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh,
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngàn
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm,
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.
Ông Sáu Tửng rất quý cây đàn kìm đó, cây đàn thùng bằng gỗ trắc, mặt đàn bằng ván cây Ngô đồng, với bài thơ xuất thần của Xuân Diệu "...Đàn buồn... đàn lặng... ôi đàn chậm.. Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân..."
Danh cầm Sáu Tửng và thi sĩ Xuân Diệu đã ra người thiên cổ, không biết trên thiên đàng hay ở cõi non bồng nước nhược nào đó, hai ông có còn dạo đàn và ngâm thơ cho nhau thưởng thức nữa không.
Kính nhớ những bậc thầy không bao giờ nguôi.
__________________
phanphuong
phanphuong is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn