View Single Post
Old 22-04-2008, 01:00 PM   #3
Hồ sơ
YourFriend
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2008
Số bài viết: 249
Tiền: 25
Thanks: 1,062
Thanked 243 Times in 107 Posts
YourFriend is on a distinguished road
Default Ðề: Thiền chữa trị thân tâm

Nhà nghiên cứu tiên phong Hans Selye định nghĩa stress là “sự đáp ứng không đặc hiệu của cơ thể với bất kỳ áp lực hay đòi hỏi nào”. Như Kabat Zinn nêu lên, “những cố gắng hiện thời của chúng ta để đáp ứng với thay đổi và áp lực, bất kể chúng có nguồn từ đâu, tự chúng sẽ dẫn đến suy sụp và bệnh tật nếu chúng không đầy đủ hay không ổn định”. Hơn nữa, Kabat Zinn dẫn ra từ Seligman, “không phải do cái gây ra căng thẳng mà do bạn nhận nó và xử lý nó như thế nào sẽ quyết định đưa đến stress hay không”. Nói cách khác, thế giới không nhất thiết là một nơi chốn của stress, nhưng có nhiều cách sống không lành mạnh của con người trong thế giới sẽ dẫn đến tăng trưởng stress bên trong chúng ta.
Một phân biệt khác của truyền thống cổ và cả y học hiện đại về giảm stress là sự khác biệt giữa khổ đau thân thể và khổ đau tâm thức. Như Tăng Chi Bộ kinh chỉ ra, “Có hai thứ bệnh… bệnh thân và bệnh tâm. Có những người có thể thoát khỏi khổ về thân trong một năm, hai năm… hay thậm chí cả trăm năm. Nhưng khó tìm thấy những người có thể thoát khỏi bệnh tâm dù chỉ một khoảnh khắc”.
Trong cái nhìn Phật giáo, như câu chuyện Màgandiya, tất cả chúng ta đều khổ đau vì những quan niệm sai lầm nền tảng về chính chúng ta, về thế giới và bản chất của hạnh phúc hay sức khỏe. Chính trong nghĩa này mà chúng ta có thể bị xem là có “bệnh tâm”, dù chúng ta may mắn có sức khỏe mạnh mẽ suốt cả đời. Dĩ nhiên, bệnh tâm lại do tham bám biểu lộ trong từng giây phút của ý thức.
Bệnh viện giảm Stress của Kabat Zinn ở Worcester, Massachusetts, Mỹ, thường đối mặt với tình huống nghịch lại - cố gắng giúp đỡ bệnh nhân với những vấn nạn thân thể không thể đảo lại được, như mất một tay chân hay một chẩn bệnh kết cục, khám phá trong chính họ kinh nghiệm toàn thể nguyên vẹn cho phép họ khỏe mạnh trong tâm. Kabat Zinn nói, “Người phải cắt tay… hay người phải đối diện với cái chết vì bệnh không thể chữa đều căn bản vẫn là một toàn thể nguyên vẹn… Chính tiến trình đi tới thỏa thuận với sự việc như chúng là đã bao gồm tiến trình chữa lành”. Chúng ta đã quá quen thuộc với quan niệm rằng sức khỏe phải hoàn toàn dựa vào trạng thái thân thể, đến độ thường phải bị dồn vào hoàn cảnh cùng cực của nhiều bệnh nhân như vậy mới bắt đầu tưởng tượng được là hoàn toàn không phải thế. Sức khỏe thân thể quả thật là phước lớn, nhưng nếu không còn có thể lựa chọn nó được, thì tự do vẫn còn để “đi tới thỏa thuận với sự việc như chúng là” và việc này tạo nên sức khỏe tâm thức. Điều mà hai quan điểm này có chung không chỉ là chúng phân biệt giữa hai chiều kích thân tâm, mà ý tưởng sâu xa hơn là không cần một nối kết tạm bợ giữa hai cái.
Chúng ta phải cẩn thận lưu ý, nói thế không phải là mỗi hệ thống tư tưởng sẽ tán thành một chủ nghĩa nhị nguyên thân/tâm. Thật sự cả hai cách nhìn đều nhấn mạnh vào sự tương liên chặt chẽ của tâm và thân. Thân và tâm tiếp tục ảnh hưởng lẫn nhau theo nhiều cách, nhưng chỉ vì thân khỏe mạnh không có nghĩa là tâm khỏe mạnh (trong trường hợp trước) và chỉ vì thân bệnh không có nghĩa là tâm cũng bệnh (như trường hợp sau). Cả hai tuyên bố này ngược với cảm nhận của những văn hóa tìm cách gắn chúng với nhau, và trong mỗi trường hợp đều có sự chuyển hóa sự bị quy định của người bệnh. Câu kinh trích dẫn ở trên thậm chí còn đi xa hơn khi cho một thí dụ về sức khỏe của tâm, sẵn sàng và có khả năng “làm quy phục những cảm nhận đau đớn của thân, chúng gây thống khổ, hành hạ, làm xao lãng và bất ổn, khiến cho đời sống bay hơi”. Lời dạy của Đức Phật cho một người đau đớn là hãy huấn luyện chính mình: “Dù thân tôi có bệnh, tâm tôi vẫn không bệnh” (Samyutta Nikaya). Thế nên cách chữa cho tâm, dù đang đương đầu với khổ đau của thân, đơn giản chỉ là tách lìa, không đồng hóa với những uẩn của kinh nghiệm, xem chúng không phải là “của tôi”, mà là “không phải của tôi”. Với sự không sở hữu, không bám luyến, không nắm chấp này, người ta sẽ không bị nhiều ảnh hưởng do những biến đổi không thể tránh mà kinh nghiệm thân tâm phải chịu đựng. Nếu bám chấp vào nội dung của kinh nghiệm, chúng ta sẽ đau khổ vì sự không dứt và biến chuyển của nó. Nhưng nếu chúng ta có thể học để an trụ trong sự tỉnh giác về tiến trình của kinh nghiệm, ghi nhận một cách không dính líu trò chơi sanh khởi, đổi thay và đi mất của hiện tượng, bấy giờ một tâm thức khỏe mạnh khởi lên trên sự khổ não của thân. Kabat Zinn cũng nói tương tự, trong khi làm việc với các bệnh nhân mãn tính:
"Khi thực hành chiếu soi (scan) thân hay bất kỳ kỹ thuật chánh niệm nào khác, bạn ghi nhận rằng hễ khi bạn đồng hóa với những tư tưởng hay cảm giác trong thân hay với chính toàn thân thể, lúc ấy có nhiều sự hỗn loạn và đau khổ hơn là khi bạn an trụ như là người quan sát không phê phán tất cả mọi thứ đó… Để mặc cho chúng đến rồi đi, bạn có thể đến một điểm mà mọi quan niệm tan biến vào trong tĩnh lặng và chỉ có cái tỉnh giác… Trong sự tĩnh lặng này, bạn đến chỗ biết rằng dù bạn là ai, “bạn” nhất định không phải là thân thể này, dù nó là của bạn để sử dụng… Khi học được điều này, mối tương quan của bạn với đau đớn trong thân sẽ thay đổi sâu xa".
Về thiền định làm việc để chữa lành khổ đau của tâm, có thể nói thêm rằng tiến trình chữa cho thân được ảnh hưởng tốt bởi sự thực hành chánh niệm tỉnh giác. Ngày nay có sự lưu tâm đáng kể trong y học khi so sánh nhóm người có tích cực đưa tâm mình vào tiến trình chữa bệnh cho thân với nhóm chỉ dựa vào thuốc men theo truyền thống. Có vẻ nhóm trước lành nhanh hơn và khỏi hẳn nhiều hơn.
Một giải thích là quan điểm cho rằng stress gây áp lực mạnh mẽ lên hệ thống chữa lành tự nhiên của thân, thế nên cái gì làm giảm ảnh hưởng của stress lên thân sẽ giúp cho thân tự chữa lành một cách tự nhiên. Chắc chắn nếu stress làm yếu hệ miễn dịch sẽ làm chúng ta bệnh và có lẽ sự loại bỏ được stress sẽ làm cho thân thể dễ dàng tự phục hồi hơn sau khi đã bị thương tổn. Kabat-Zinn thảo luận quan điểm này trong sách của ông, nói về sự huấn luyện cho các bệnh nhân của ông đáp ứng với stress bằng tỉnh giác thay vì phản kháng lại, vẫn thường gây ra stress. Đây là một lãnh vực háo hức trong y học hiện giờ và vẫn còn nhiều điều cần học về cơ chế của hệ miễn nhiễm kích thích hay cấm chỉ. Không có gì huyền bí đặc biệt về tiến trình này, trong chừng mực mà nó cắm rễ vào lý thuyết sinh học quy ước (có lẽ ngoại trừ giải pháp triết học về khả năng của tâm ảnh hưởng lên hệ thống của thân nhiều như thường thấy).
Cách giải thích tâm chuyển hóa thân theo Kabat Zinn dựa vào ý niệm tính toàn vẹn và tính liên kết. Ông nói:
"Khi chúng ta dùng từ chữa lành để diễn tả những kinh nghiệm của người bị stress ở trong bệnh viện, điều đó trước hết là họ đang trải qua một chuyển hóa về quan điểm… Nó là một xa lìa liên tục khỏi sự phân mảnh và cô lập đối với tính toàn thể nguyên vẹn và tính liên kết. Trong những giây phút tịch lặng, bạn đi đến chỗ thấu hiểu rằng bạn vốn là toàn thể nguyên vẹn, vốn là đầy đủ trọn vẹn trong bản thể bạn, dù có thể thân thể đang đau".
Chính sự thực hành thiền định cho phép chúng ta tiếp xúc với những viễn cảnh tốt đẹp này. Làm yên lặng tâm thức sẽ giảm thiểu những năng lực phân mảnh và cho phép chúng ta kinh nghiệm sự không có xung đột, đó là đặc trưng của sự biểu lộ nơi mình tính toàn thể nguyên vẹn. Thiền định cũng cho phép đi vào những cơ chế thông tin phản hồi khác nhau của ý thức và vô thức, khiến cho chúng ta nối kết trực tiếp nhiều hơn với mọi tiến trình thân tâm. Kabat Zinn xem những kinh nghiệm tính toàn thể nguyên vẹn và tính liên kết có thể đạt được nhờ chánh niệm như là sự chữa lành nội tại bẩm sinh. Có lẽ chịu ảnh hưởng của nền Thiền học của mình, ông quan niệm trạng thái tự nhiên của con người là một trạng thái vốn sung mãn và hạnh phúc. Những lực lượng của bệnh tật khởi sanh khi chúng ta tách lìa với trạng thái sung mãn và hạnh phúc này, và thiền cho chúng ta cách trở về với nó.
Có lẽ cần nói rằng nhiều sự giải thích ảnh hưởng chuyển hóa của tâm lên thân, ít nhất trong truyền thống Phật giáo, được tìm thấy trong chính sự liên kết tâm-thân. Vào thời cổ ở Ấn Độ, Đức Phật đã chống lại quan điểm thống trị bấy giờ cho rằng linh hồn trú ngụ nơi thân thể, và bác bỏ nhiều thực hành yoga và khổ hạnh cổ vũ phải phân lìa hai cái đó. Đức Phật nói, một cách căn bản, tâm và thân là hai mặt của cùng một hiện tượng. Chính xác hơn là xem con người như là một cơ chế tâm thân (nàma-rùpa, danh sắc), gồm một uẩn vật chất (rùpa, sắc) mà về nguyên tắc không thể tách lìa bốn uẩn kia (vedanà, sanna, sakhàra, vinnãna: thọ, tưởng, hành, thức). Từ viễn cảnh này, sự chuyển hóa của tâm lên thân không còn là bí ẩn, vì trong bản chất những chiều kích tâm và thân của con người thì hoàn toàn tương thuộc, liên lập.
Hệ thần kinh trung ương rốt cuộc phân phối khắp toàn thân. Chúng ta có thể dễ dàng kiểm chứng với những thao tác đơn giản như chỉ việc chú tâm vào một phần riêng biệt nào của thân sẽ đưa đến kết quả thay đổi tức thì: cảm nhận về phần thân thể đó, và những sự thay đổi về nhiệt độ, áp lực máu… Tương tự, chúng ta có thể lưu ý theo nhiều cách sự tác động của môi trường lên thân thể tương ứng với những thay đổi của tâm. Thế nên chúng ta nên giã từ quan niệm nhị nguyên về thân tâm, mà xem thực thể thân tâm là một cơ chế đơn nhất. Bấy giờ có lẽ chúng ta sẽ ít nói tâm thay đổi thân như thế nào và thân thay đổi tâm như thế nào, và thấy một tiến trình hợp nhất cùng chuyển hóa. Trong truyền thống Phật giáo, năm uẩn là tương thuộc và không thể tách rời, do đó giáo lý thường nói đến cả năm cùng một lúc.
Theo một giải thích truyền thống của Phật giáo, thiền có ích cho sự chữa lành thân. Thiền phân biệt thành hai loại, yên tĩnh (samatha, thiền định hay thiền chỉ) và nội quán (vipassana, thiền quán hay minh sát). Thiền định hay thiền chỉ là tập trung tâm vào chỉ một đối tượng của sự chú ý, bỏ hết các thứ khác. Khi tâm có thể giữ sự chú ý vững chắc trên một đối tượng với càng lúc càng ít hơn sự gián đoạn, cuối cùng nó an định rất vững chắc, rất tập trung và ở yên trong định. Bước đầu trong tiến trình này, thân sẽ kinh nghiệm như tắm trong những cảm giác nhẹ nhàng, lạc phúc; nhưng ở những trạng thái nhập định sâu hơn, mọi kinh nghiệm thân thể đều dừng và hỷ lạc chuyển hóa thành những trạng thái thản nhiên (xả) sâu xa. Một trong những kết quả của loại thiền an định này, như người ta có thể tưởng tượng, là những kinh nghiệm đau đớn thể xác có thể tạm thời vượt qua. Thiền quán (minh sát) đánh thẳng vào tâm điểm của nguyên nhân gây khổ đau - hai nhân tố khao khát và vô minh - đó chính là sự chữa trị căn bản nhất. Ở đây tâm cũng tập trung vào một phương diện riêng biệt của kinh nghiệm (một cảm giác thuộc thân, một cảm giác, một tư tưởng…), nhưng những đối tượng của sự tập trung này cho phép thay đổi một cách tự nhiên với sự khai mở của kinh nghiệm trong tính toàn bộ của nó. Chẳng hạn, sự chú ý trọn vẹn được đưa đến một cảm giác thân thể, nhưng tức thời tiếp theo đó có thể tập trung vào một cảm nhận, rồi một tư tưởng… trong những hoàn cảnh tự nhiên. Thiền quán làm mạnh yếu tố niệm (sati), nhờ đó chúng ta hoàn toàn hiểu biết bất kỳ đối tượng tinh tế nào. Kết quả của thói quen chánh niệm này thì vi tế hơn thực hành tập trung và làm sáng tỏ và cuối cùng giải tỏa những tiến trình sâu kín, nhờ đó chúng ta tạo ra khổ đau khi mỗi khoảnh khắc kinh nghiệm sanh khởi. Chánh niệm tự nó không phải là sự chữa cho khổ đau, nhưng nó là một công cụ mạnh mẽ để đi vào sự chữa lành.
Học cách chú ý vào kinh nghiệm trong từng khoảnh khắc của thân và tâm cuối cùng sẽ phát hiện nhiều bí mật của động cơ thân tâm. Khi hiểu biết về chính chúng ta thay đổi, một số thói quen đáp ứng của chúng ta cũng bắt đầu chuyển hóa. Thấy tính biến đổi nội tại của kinh nghiệm, chúng ta bớt bám nắm vào mỗi khoảnh khắc của nó. Thấy tính thay đổi và tính không có bản chất của cái mà chúng ta vẫn quen gọi là “chính tôi”, chúng ta có thể xem mình bớt trọng đại hơn và sau cùng cái gì xảy ra cho chúng ta thì kém cá nhân hơn. Thấy rằng mọi thỏa mãn lạc thú thì không tránh khỏi chỉ là tạm thời, chúng ta dần dần bớt hy vọng vào những hành vi đem lại thích thú. Nếu nhìn kỹ vào kinh nghiệm trực tiếp của mình, chúng ta sẽ có thể nhận biết sự vô thường của nó (anicca), sự vô ngã (anattà) và sự bất toại nguyện (dukkha) của nó, và thiền quán là phương tiện để có những cái thấy thấu suốt này. Kết quả của việc tự mình thấy những tính chất này của kinh nghiệm, chúng ta sẽ tháo lỏng ảnh hưởng của bám chấp, đều gây ra khổ đau trong đời sống. Đây quả là cẩm nang của việc làm giảm bớt stress trong thời này như được dạy và được thực hành trong những chương trình, mà một trong số đó là ở Đại học Trung tâm Y khoa Massachusetts do Kabat Zinn và các đồng nghiệp tiến hành.
Phương pháp chánh niệm để điều trị tập trung vào việc thay đổi tương quan của chúng ta với kinh nghiệm về khổ đau của mình, hơn là thay đổi tính chất của nỗi khổ thân thể. Sự kiện thực hành chánh niệm ở đời sống bên trong hơn là những biểu lộ bên ngoài không nhất thiết làm cho nó kém đi là một hình thức của Phật giáo dấn thân. Khác với những hình thức khác của Phật giáo nhập thế, nó không tương tác với những cơ cấu áp bức của xã hội, hay với những người gây ra chiến tranh, hay với những người xâm phạm nhân quyền hay phá hoại môi trường. Y học hành vi đương đại tập luyện cho người ta không chỉ dấn thân vào bệnh tật của họ, mà sâu xa hơn, dấn thân vào những thái độ chấp trụ và sự bị điều kiện hóa của họ. Sự sợ hãi đau đớn, sự khủng bố của cái chết phải tới, sự mất kiểm soát trên cuộc đời mình, và rất nhiều mối khổ đau khác - tất cả chỉ được giải tỏa bằng thực hành thiền. Vấn đề còn lại cho mỗi người bệnh là vật lộn theo cách riêng của họ với những lực lượng trong chính họ, chúng làm mạnh thêm hay yếu đi năng lực của người chịu đựng trong cuộc sống của họ.

PROF. K. T. S SARAO - THIỆN TRI THỨC dịch
YourFriend is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn
Đã có thành viên gửi lời cám ơn đến YourFriend vì bạn đã đăng bài:
gacon (22-04-2008)