Ðề tài: Lịch sử vật lý
View Single Post
Old 01-01-1970, 07:00 AM   #5
Hồ sơ
DeMen
Administrators
 
DeMen's Avatar
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Cư ngụ: Noitacol
Tuổi: 38
Số bài viết: 2,266
Tiền: 25
Thanks: 370
Thanked 912 Times in 460 Posts
DeMen is an unknown quantity at this point
Default

Cuộc cách mạng khoa học

Cuộc CMKH có thể đuợc xem như là sự nở rộ của thời đại Phục hưng và là cánh cổng lớn để buớc vào nền văn minh hiện đaị. Nó bắt đầu với chỉ một vài nhà nghiên cứu, phát triển thành một phong trào mạnh mẽ tiếp tục đến tận ngày nay. Bắt đầu với thiên văn học, các nguyên tắc của triết học tự nhiên kết tinh vào trong các định luật cơ bản của vật lý đã đuợc trình bày và phát triển trong những thế kỷ tiếp theo. Đến truớc TK19, khoa học đã đuợc chia thành nhiều lĩnh vực khác nhau với những nhà nghiên cứu chuyên sâu và vật lý học, dù rất ưu tú, vẫn không thể tiếp tục cáng đáng vai trò đầu tàu cho các lĩnh vực còn lại của nghiên cứu khoa học.

TK16

Trong TK16 Nicholas Copernicus đã phục hồi mô hình nhật tâm của hệ Mặt trời vốn đuợc Aristarchus nghĩ ra (tồn tại một cách thoáng qua trong Sand Reckoner of Archimedes). Khi mô hình này đuợc xuất bản vào cuối đời Copernicus, nó đã đuợc kèm theo lời đề tựa của Osiander một cách ngoan đạo rằng đó chỉ là bằng chứng toán học của việc tính toán vị trí các hành tinh, và không phải là sự mô tả bản chất thực sự của quỹ đạo các hành tinh.

Ở Anh, William Gilbert (1544 - 1603) đã nghiên cứu từ học và xuất bản tác phẩm De Magnete (1600), trong đó trình bày rõ ràng kết quả của vô số các thí nghiệm của ông.

TK17

Đầu TK17 Kepler đã đặt công thức cho mô hình hệ Mặt trời dựa trên 5 nguyên tố cơ bản theo Platon, trong nỗ lực giải thích tại sao quỹ đạo của các hành tinh lại có kích thuớc tuơng đối như vậy. Sự thâm nhập của ông vào việc quan sát thiên văn chính xác tuyệt đối bởi Tycho Brahe đã cho phép ông kết luận rằng mô hình của ông mâu thuẫn với những quỹ đạo đã quan sát đuợc. Sau một nỗ lực phi thuờng trong 7 năm tiến tới một mô hình chính xác về sự chuyển động của Sao Hoả (trong quá trình đó ông đã đặt nền móng cho phép tính tích phân hiện đaị), ông đã kết luận rằng các hành tinh đi theo những quỹ đạo không tròn mà là elip, và Mặt trời nằm ở 1 tiêu điểm của elip đó. Khám phá này đã lật đổ một thiên niên kỷ của giáo lý dựa trên ý tuởng của Ptolemy về những quỹ đạo "hoàn haỏ" của những thiên thể "hoàn haỏ". Kepler sau đó đã đi vào xác lập công thức cho 3 định luật về sự chuyển động của hành tinh. Ông cũng lần đầu tiên đưa ra mô hình về sự chuyển động của hành tinh trong đó các lực bắt nguồn từ Mặt trời làm chệch huớng các hành tinh khỏi sự chuyển động "tự nhiên", khiến chúng chuyển động theo quỹ đạo cong.

Trong đầu TK17, Gallieo đã tiên phong trong việc sử dụng thí nghiệm để kiểm chứng các lý thuyết vật lý, ý tuởng cốt yếu của phuơng pháp khoa học. Việc sử dụng thí nghiệm của Gallieo, và sự thống nhất của Gallieo và Kepler rằng kết quả quan sát phải luôn đuợc ưu tiên so với kết quả lý thuyết (trong việc này họ đã tuân theo các nguyên tắc của Aristotle nhưng không theo cách ông thực hiện), phá bỏ sự thừa nhận giáo lý, và khai sinh một kỷ nguyên mà ở đó, các ý tuởng khoa học đuợc tranh luận rộng rãi và kiểm tra nghiêm ngặt. Gallieo đã tìm ra công thức và kiểm nghiệm thành công nhiều kết quả trong động lực học, bao gồm cả đinh luật đúng đắn về chuyển động có gia tốc, quĩ đạo parabol, tính tuơng đối của chuyển động không gia tốc, và hình thức đầu tiên của Định luật quán tính.

Năm 1687, Issac Newton xuất bản quyển "Nguyên lý Toán học", miêu tả chi tiết hai lý thuyết vật lý thành công và toàn diện: định luật Newton về chuyển động, cơ sở của cơ học cổ điển; và qui luật hấp dẫn của Newton, miêu tả lực hấp dẫn cơ bản. Cả 2 lý thuyết đều phù hợp với thí nghiệm. Cơ học cổ điển sau đó đã đuợc mở rộng một cách thấu đáo bởi Lagrange, Hamilton, và những nguời khác, giới thiệu những công thức, nguyên lý, kết quả mới. Định luật hấp dẫn đã khai sinh ra lĩnh vực lý thiên văn, mô tả các hiện tuợng thiên văn bằng các lý thuyết vật lý.

Chúng ta nên bổ sung vào đây 1 ít về những quan sát của Huyghens về vòng bao quanh sao Mộc, và cuộc chiến giữa ông với Newton về việc ánh sáng là sóng hay là hạt.

TK18

Từ TK18 trở đi, khái niệm nhiệt động lực học đã đuợc phát triển bởi Boyle, Young, và nhiều nguời khác, cùng lúc với sự phát triển của động cơ hơi nuớc, tiếp tục ở thế kỷ tiếp sau. Năm 1733, Daniel Bernoulli đã dùng những tranh cãi về mặt thống kê trong cơ cổ điển để tìm ra những nguyên lý nhiệt động lực học, khai sinh lĩnh vực cơ học thống kê. Benjamin Franklin huớng những nghiên cứu của ông vào bản chất của điện năm 1752. Năm 1798 Thompson đã chứng minh sự chuyển hoá công cơ học thành nhiệt, giúp Joule chứng minh định luật bảo toàn năng luợng trong TK sau.

__________________
tặng nhau nhé tim nghe hồn nhiên
DeMen is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn