PDA

View Full Version : Lễ Hội Việt Nam, Sưu tầm từ nhiều nguồn


dark
01-01-1970, 07:00 AM
Lễ Kỳ An ở đình Châu Phú

Từ ngoài vào, bên trái là miếu thờ Sơn quân, bên phải là am thờ Ngũ hành. Bắt đầu gian chính điện, sau gian võ ca, là bàn thờ hội đồng, bàn thờ ông tượng, thờ thần Bạch mã, kế đó là bàn thờ thành hoàng bổn cảnh, bàn thờ hai ông: Đỗ Đăng Tàu (chánh vệ thuỷ): Lệ Văn Sanh (phó vệ thuỷ), rồi bàn thờ Thoại Ngọc Hầu, bàn thờ Nguyễn Hữu Cảnh. Hai bên là các ban thờ tả ban, hữu ban, tiền hiền, hậu hiền.

Vị thần chính được thờ trong đình Châu Phú là Nguyễn Hữu Cảnh. Ông là người có công với miền Nam Bộ nói chung, An Giang nói riêng. Năm 1698 ông nhận chức Kinh lược vào đất Gia Định, lần đầu tiên, tổ chức việc hành chánh, tạo nề nếp cho người dân đi khẩn hoang.

Năm 1700 ông chết, chúa Nguyễn Phúc Chu truy phong là hiệp tán công thần, đặc tấn chưởng dinh. các vua nhà Nguyễn, bắt đầu từ Gia long đều truy phong chức tước cho ông. Ngày 29 tháng 11 năm 1852, vua tự Đức phong ông là thượng đẳng thần, chuẩn cho làng Châu Phú, huyện tây Xuyên phụng thờ. Có lẽ khi ấy, ông được coi là thành hoàng làng Châu Phú. Bởi lẽ, trước đó, các cuốn sách về vùng này như Gia Định thành thông chí (Trịnh Hoài Đức), Đại nam nhất thống chí (các quan chép sử nhà Nguyễn) đều chưa chép gì về ngôi đình và việc thờ này. Hai cuốn sách đều nói, tại vùng này có đền thờ ông. Đại Nam nhất thống chí chép: "Đền thờ Lễ công ở địa hạt thôn Châu Phú, huyện Tây Xuyên, cựu trấn thủ Nguyễn Văn Thụy dựng đền này phụng tự Tiền thống suất chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh. Đến nay, hương hoả còn y như trước mà rõ có linh ứng"(1).

Việc đưa Thoại Ngọc Hầu vào thờ phụng ở đây, không rõ vào thời gian nào.

Với các ban thờ, nhân vật được phụng thờ như trên, lễ Kỳ Yên tại đình Châu Phú được tổ chức theo trình tự sau:

1. Lễ thỉnh sắc: Bắt đầu từ 7 giờ sáng ngày mùng 10/5 âm lịch tiến hành lễ thỉnh "sắc thần Nguyễn hữu cảnh" từ Nhà lớn về đình. Lễ này rất long trọng, có xe hoa, long đình, chiêng, trống, học trò lễ v.v... các vị trong ban quản trị đình thần mặc áo dài khăn đóng đi hầu phía sau. Sau lễ thỉnh "sắc thần Nguyễn hữu cảnh" là lễ thỉnh "Sắc thần Thoại Ngọc Hầu" tại phủ thờ của ông Nguyễn Khắc Mi (cháu nhiều đời của Thoại Ngọc hầu), sắc thần của hai ông chánh vệ thuỷ Đỗ Đăng Tàu và phó vệ thuỷ Lê Văn Sanh.

2. Lễ túc yết: Lễ túc yết được diễn ra theo trình tự nghi thức dân gian truyền thống thường thấy ở các đình trong tỉnh An Giang. Đúng một giờ đêm ngày 11/5 âm lịch Ban quản trị của đình đã tề tựu đông đủ để bắt đầu cúng túc yết. Chịu trách nhiệm chính ở buổi lễ cúng là ông chánh tế- cũng là trưởng ban quản trị đình.

- Lễ vật chính dâng cúng trong buổi lễ túc yết gồm có một con heo trắng (heo đã mổ xong, cạo sạch, chưa nấu chín), một chén đựng huyết, một ít lông heo gọi chung là "mao huyết", một mâm xôi, một trái cây, một mâm trầu cau, một đĩa muối, gạo. Các lễ vật được bày trên bàn, riêng con heo trắng được đặt sấp, thân phủ lên một giá gỗ cao. Ngoài ra còn có những lễ vật khác do nhân dân mang đến dâng cúng.

Bắt đầu vào lễ, ông chánh tế đến dâng hương lễ trước bàn thờ, rồi lần lượt Ban quản trị thay nhau vào lễ. Kế đến là phần "Khởi chinh cổ", sau khi đánh ba hồi trống gỗ và ba hồi chiêng mõ. Ban nhạc lễ với các nhạc cụ dân tộc bắt đầu trỗi lên, lễ dâng hương, chuốc tửu, tiệm trà bắt đầu.

Diễn tiến của buổi lễ đều theo sự điều khiển của người xướng lễ.

Sau khi dâng hương, dâng ba tuần rượu gọi là chuốc tửu và dâng trà gọi là tiệm trà, theo lời xướng của người xướng lễ, bản văn tế (văn chúc) được mang đến trước bàn thờ. Ban tế quỳ xuống "đọc văn", trong khi ban nhạc lễ trỗi nhạc để phụ họa cho giọng đọc. Dứt bài văn tế, ông chánh tế nghỉ cúng, đốt văn bản này và một ít giấy tiền vàng bạc, phần nghi thức lễ túc yết coi như đã xong.

3. Lễ xây chầu và hát bội. Sau khi lễ túc yết xong, là đến lễ xây chầu và hát bội được tổ chức tại gian võ ca phía trước chính điện. những người tham dự cũng ăn mặc chỉnh tề xếp thành hai hàng nhưng từ cửa chính điện trở ra. Trên gian võ ca, tất cả diễn viên đoàn hát bội hoá trang, trống mõ sẵn sàng. Ông chánh bái ca công (Chủ trì lễ xây chầu) nhúng cành dương vào tô nước cầm trên tay vẩy ra xung quanh và đọc lời cầu nguyện:

- "Nhất sái thiên thanh". (Trời thêm thanh bình)

- "Nhị sái địa linh" (Đất thêm tươi tốt)

- "Tam sái nhơn trường" (Người được sống lâu)

- "Tứ sái quỷ diệt hình" (quỷ dữ bị tiêu diệt).

Đọc xong, ông chánh bái đánh ba hồi trống và nói: "Ca công- tiếp hát", lập tức trống mõ của đoàn hát bội rộ lên và chương trình hát bội được bắt đầu. Đoàn hát rất nhiều xuất với các tích tuồng xưa như: Trần Bình Trọng, Sát Thát, Trưng nữ Vương, Lưu kim Đính, Sơn hậu...

4. Lễ Chánh tế: vào 3 giờ sáng ngày 12/5 âm lịch bắt đầu lễ chánh tế, nghi thức diễn lại như lễ túc yết là sau phần dâng trà là phần âm thực mang ý nghĩa truyền thống. Phần thưởng của thần ban cho vị chánh tế.

5. Lễ nối sắc: Tiến hành vào lúc 13 giờ ngày 12/5 âm lịch- ngày cuối cùng của lễ hội. Nghi thức cũng giống lễ thỉnh sắc. Lễ hội kỳ yên tại đình thần Châu Phú đến đây là kết thúc.

Lễ hội này thu hút đông đảo nhân dân quanh vùng qui tụ về với lễ vật trên tay, người nào cũng trang phục chỉnh tề, quỳ lạy trước bàn thờ và cầu nguyện thần linh sao cho mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an, mùa màng thuận lợi, sản xuất phát triển, nhân dân ấm no.

Như thế, lễ Kỳ Yên ở đình Châu Phú mang hai lớp ý nghĩa vừa tưởng nhớ một vị có công khai phá miền Nam Bộ, vừa cầu mong một cuộc sống no đủ. Cho nên, đây là một sinh hoạt văn hoá dân gian đáng được bảo tồn, duy trì và tạo điều kiện phát triển.


Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

dark
01-01-1970, 07:00 AM
Hội chùa Ông Bổn

Chùa ông Bổn của người Hoa ở Chợ Lớn, còn gọi là Nhị phủ miếu, tọa lạc tại đường Hải Thượng Lẫn Ông, quận 5 (TP. Hồ Chí Minh).

Chùa có vị trí quan yếu đối với người Hoa gốc Phúc Kiến ở quận 5...

Theo tài liệu của Lý Văn Hùng trong Gia Định tràng Phật Tích cổ thì ông Bổn chính là Châu Đạt Quan, một viên quan của triều đình Trung Hoa đời nhà Nguyên, thế kỷ thứ XIII.

Ông tham gia các sứ bộ Trung Hoa đến nhiều nước ở Đông Nam á, trong đó có vùng đất nam Việt Nam và Chân Lạp.

Ông là nhà viết sử và nhà du ký... nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa cổ đại. Từ miền Chân Lạp trở về, ông viết quyển Chân Lạp phong thổ ký (ghi chép về phong tục, đất đai và con người) mô tả vùng đất cực nam Đông Dương thế kỷ XIII...

Chùa Ông Bổn - Nhị phủ miếu có kiến trúc tổng thể theo hình chữ khẩu, gồm bốn dãy nhà dài, vuông góc nhau, khoảng trống ở giữa tạo nên sân thiên tỉnh.

Nhìn từ bên ngoài chùa Ông Bổn nổi bật giữa phố phường với những nếp mái cong như chồng lên nhau. Những nếp mái cong của chùa Ông Bổn khá độc đáo so với nhiều ngôi chùa khác ở thành
phố Hồ Chít Minh cũng như cả nước.

Phần chính điện chùa Ông Bổn bày một bàn thờ Ngọc Hoàng thượng đế với một lư hương bằng đồng khá lớn. Bên trên Ngọc Hoàng có hai tấm hoàng phi đại tự "Phúc toàn đức bị" và "Thích
cấp lâm phong". Những hiện vật này được ghi rõ làm trong năm Quang Tự thứ 27 tức 1901.

Đi qua sân thiên tỉnh, nơi đó có dãy bàn bằng xi măng làm chỗ biện bày các lễ vật cúng thần, sẽ bắt gặp một hoàng phi đại tự "Thân Lâm phước địa", nét chữ bay bướm phong nhã. Bên dưới
hoàng phi là một bàn để bày lễ cúng và cũng là bàn thờ "Nhị Phủ miếu phúc đức chính thần".

Bàn thờ "Phúc đức chính thần" chiếm vị trí trung tâm của gian chính điện với trang thờ nguy nga, lộng lẫy. Bao lam điện thờ được sơn son thếp vàng, chạm lộng hoa lá, rồng, phượng v.v... Điện thờ
phúc đức chính thần có tượng ông Bổn bằng gỗ cao khoảng 1,5m, một cỗ ngũ sự bằng đồng, một bài vị "Nhị Phủ Đại Bá Công". Tượng ông Bổn thể hiện một ông già khuôn mặt quắc thước, khoan hòa với chòm râu bạc trắng buông dài, dáng ngồi thoải mái, một tay gác lên tay ngai, một tay vừa mới vuốt chòm râu. Những nếp áo tượng buông chùng trong dáng nghĩ ngợi suy tư. Bên dưới tượng ông Bổn là hai tượng nhỏ khác như hai đồng tử đang đứng chờ được sai bảo.

Bên trái bàn thở ông Bổn là một gian điện thờ nhỏ hơn, thờ Quảng Trạch Tôn Vương, cùng 106 vị khác. Bàn thờ có hai di tượng, tượng một hài đồng yên vị trên ngai với vẻ mặt ngây thơ, có dáng như ngạc nhiên, bên dưới là tượng một nhà sư (hoặc đạo sĩ) mặc áo vàng, đầu trọc, lông mày rậm uốn cong lên. Trên trang thờ Quảng Đại Tôn Vương còn một bức liễn nhỏ ghi ba chữ "Phụng
Sơn Tự". Bên phải bàn thờ ông Bổn, đối xứng với bàn thờ Quảng Trạch là bàn thờ "Thái tuế". Trên bàn thờ là một đạo sĩ, tay đang lắc chuông, chung quanh là ba con hổ trong trạng thái gầm ghè hung hãn. Vị đạo sĩ vẫn bình tĩnh nhìn về phía trước như đang thu phục lũ dã thú. Trước tượng đạo sĩ là tượng một đồng nhi ở trần đang múa gươm.

Dãy nhà giữa bên phải chính điện là nơi làm việc của Ban trị sự Nhị Phủ miếu. Dãy nhà bên trái là nơi đặt điện thờ Quan Công, Quan Thế Âm bồ tát và hai bàn thờ nhỏ hơn một thờ bà Chúa Sanh
(Chúa Sanh nương nương) và bà phu nhân Hoa Phấn (Hoa Phấn phu nhân). Những di tượng nơi các điện thờ, bàn thờ ở bên trái cũng gần giống với nhiều chùa Hoa khác thờ Quan Công, Quan Thế Âm...

Bên trong chùa Ông Bổn hiện còn lưu lại 10 cặp liễn bằng gỗ, 10 bức hoành phi cũng bằng gỗ được sơn thếp chạm trổ rất khéo léo. Hầu hết các liễn, hoành này có niên đại Quang Tự đời nhà Thanh tức được hoàn thành vào cuối thế kỷ trước. Ngoài ra trong chùa còn hai quả chuông, một bằng đồng và một bằng gang. Quả chuông đúc bằng gang có ghi năm chế tạo "Quang Tự nguyên
niên" (tức năm 1875), với dòng chữ "chúng thương đồng cúng" (do những người buôn bán cúng cho chùa). Chuông này khá nặng và to lớn, nhà chùa không có giá treo nên đành để dãi dầu phong sương ở dưới đất góc chùa, cạnh lò đốt vàng mã. Một chuông khác đúc bằng đồng, dáng nhỏ, thanh thoát có ghi chữ "ất Dậu trọng thu", có lẽ được đúc vào năm 1825.

Nhìn chung, kiến trúc và tư tưởng chùa Ông Bổn - Nhị Phủ miếu tương đối đơn giản, nhưng vẫn tạo được không khí trang nghiêm của một cơ sở tín ngượng, tôn giáo và thể hiện một phong cách đặc sắc văn hóa của người Hoa ở thành phố. Việc chọn ông Bổn làm vị thần thờ cúng chính của ngôi chùa cũng là một đặc điểm đáng lưu ý của tôn giáo, tín ngưỡng của người Hoa ở Việt Nam nói chung.

Hàng năm, chùa Ông Bổn có nhiều ngày lễ hội lớn. Đặc biệt ngày lễ chính của chùa là rằm tháng Giêng và rằm tháng Tám theo âm lịch. Theo Ban trị sự của chùa, đó là ngày sinh và ngày mất của
ông Bổn. Lễ vật cúng ông Bổn thường là heo quay, heo sống, gà luộc, hoa trái, nhang đèn v.v... Ngươi Hoa phần lớn là người gốc Phúc Kiến đem lễ vật đến chùa cúng rất đông. Bà con người Hoa thường mua những vòng hương thắp cúng treo khắp vòm trần chùa tỏa khói thơm nghi ngút suốt nhiều tháng.

Ngoài hai ngày lễ chính, chùa Ông Bổn cũng có một số bà con người Hoa đến cúng chùa vào dịp Tết Nguyên đán, Nguyên Tiêu, Rằm tháng Chạp... Người Hoa ở thành phố tới lễ chùa, dự hội rất
đông vui. Thường vào dịp tết Nguyên Đán, các đội múa Rồng đến tổ chức biểu diễn múa ngay sân chùa thu hút hàng ngàn người xem. Các đội võ thuật, thể dục thể thao, cũng thường tổ chức các cuộc thi đấu tại sân chùa. Vào Rằm tháng Giêng một số bà con người Hoa đến lễ chùa và xin vay mượn tiền của các vị thần thánh trong chùa như Ông Bổn, Quan Công để làm ăn buôn bán. Sự vay mượn này có tính chất tượng trưng, nhưng đến cuối năm vào Rằm tháng Chạp, bà con đến chùa trả lễ đầy đủ cả vốn lẫn lời bằng số tiền mặt bỏ vào các thùng phước sương. Vào dịp này số người đến chùa Ông Bổn, cũng như nhiễu chùa khác xin xăm, bói toán khá nhộn nhịp. Phải chăng, những trò diễn, sinh hoạt văn hóa này là những nhánh tầm gửi mọc trên một cành cây, cần phải trừ bỏ một cạch thấu tình đạt lý?

Kho tàng lễ hội cổ truyền việt Nam

dark
01-01-1970, 07:00 AM
Nét độc đáo - lễ hội làng Tạ Xá

Làng Tạ Xá xưa có tên là Lường Tè, nằm trong cụm bốn làng Lường là Lường Tè, Lường Bụi, Lường Lủi, Lường Lau, thuộc xã Lương Xá, tổng Lương Xá, huyện Phù Vân, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông (cũ), nay thuộc xã Đại Thắng (Phú Xuyên). Xưa cả bốn làng có một ngôi nghè chung thờ vị thần Trung Thành Đại vương thượng đẳng phúc thần, người có công giúp vua Hùng Duệ Vương dẹp giặc cứu nước và lập ra Lương Xá trang, tức xã Lương Xá.
Lễ hội cổ truyền xưa, cả bốn làng đều tổ chức rước thánh làng về nghè hàng xã tế lễ rất trọng thể từ ngày 10 đến 15 tháng 3 âm lịch. Trong lễ hội đã diễn ra nhiều cuộc thi tài giữa các làng, trong đó thi gà, thi gạo, thi bánh chưng. Trong các cuộc thi này, người Tạ Xá vốn cẩn thận, khéo tay, có kỹ thuật và óc thẩm mỹ nên thường đạt giải cao. Mỗi môn thi của mỗi năm có 4 người được làng chỉ định, lần lượt từ tuổi cao làm trước và cứ thế bắt lượt tiếp theo cho năm sau.

* Thi gà

Bốn người đến lượt dự thi thường chọn gà nuôi trước dăm, bảy tháng, có khi cả năm. Mỗi suất thi chỉ một con, nhưng thường phải nuôi vài con để đến khi thi chọn con đẹp nhất. Gà thi là gà sống thiến. Từ khi thiến đến khi thi phải cách vài tháng, sau khi thiến phải cầm lồng, nuôi dưỡng chăm sóc khá cẩn thận. Người nuôi phải nghiền cơm nóng với cám gạo rồi vê viên nhồi cho gà ăn. Như vậy gà mới béo, đẫy, chắc thịt, thịt thơm ngon. Con gà thi nặng khoảng 2-2,5kg. Lúc đem thi, con gà trông béo, dáng khỏe, màu sắc đẹp, mượt mà. Con gà thi đạt giải nhất sẽ được đem đi thi với hàng xã và được làm thịt để tế thần vào ngày 13 ở nghè hàng xã. Con giải nhì, giải ba tế ở đình, đền mẫu. Người thi gà đạt giải nhất được làng thưởng hai sào ruộng tốt.

Con gà được giải sẽ làm thịt để tế thần. Cách làm thịt gà mới thật cầu kỳ, đòi hỏi bàn tay khéo léo. Khi cắt tiết, không nắm chặt đầu gà, cánh và đùi gà để tránh đọng máu, tránh da gà chỗ đó bị tím, mầu xấu. Người ta chỉ cầm ở mỏ gà, giữ phần lông cánh gà và phần cẳng chân con gà. Chỗ cắt tiết, dùng dao nhỏ, nhọn, chọc tiết để khi gà luộc chín, vết cắt ngậm lại chứ không há ra. Nhúng nước sôi để làm lông cũng phải khéo, vừa đủ độ để gà khỏi tuột da. Gà được mổ moi, gan, lòng, mề làm sạch nhồi trong bụng gà. Cắt chân gà bên dưới khớp để tránh chỗ cắt thịt bị co khi luộc chín. Khi luộc, đặt gà trong nồi rộng. Đầu, cổ, cánh được kê, chống cài đũa giữ cho tư thế con gà ở dạng tự nhiên, đầu, cổ cân, ngỏng cao, không vẹo về bên nào, cánh xòe cánh phượng, dáng bay. Luộc đun nhỏ lửa, vừa chín, không tuột, không nứt, nhất là hai đùi. Luộc xong vớt ra, dùng mỡ gà xoa nhẹ đều lên da gà một lượt, làm cho con gà có màu vàng mịn màng. Đặt gà trên mâm đồng, mồm ngậm một bông hồng đỏ tươi đang bắt đầu nở. Gà được giải là lễ vật tế thần.

* Thi gạo nếp và bánh chưng

Gạo nếp phải là nếp cái trắng. Cũng bốn người được cắt lượt thi. Gạo thi khoảng một mâm, nhưng phải xay giã gấp hai, ba lần để còn chọn lọc. Gạo xay xong, sàng sẩy sạch trấu, chọn sơ lần đầu rồi mới cho vào cối giã. Mỏ cối phải thay bằng mỏ gỗ hoặc gốc tre gài gọt tròn đầu nhẵn nhụi để tránh gãy gạo, giã làm nhiều lần, giần sạch cám và chọn nhiều lần để gạo không lẫn, hạt gạo trắng bóng, đẹp mầu. Khi chọn, đổ từng bát tãi mỏng trên mâm đồng, nhặt bỏ hết các hạt gạo tẻ, hạt đầu ruồi, óc cá, tấm và loại bỏ cả những hạt gạo nếp tuy nguyên vẹn nhưng mầu xỉn hoặc nếp giống khác. Gạo rộng đều tăm tắp, trắng muốt, anh ánh phớt xanh là đạt tiêu chuẩn. Cũng như gà thi, gạo đạt giải cũng được đồ xôi, gói bánh chưng dự thi với hàng xã và được dâng lên tế thần ở nghè công xã.

Bốn người thi gạo được gói bánh chưng dự thi. Mỗi suất thi được giao cấy 5 sào ruộng. Khi thi mỗi suất gói 31 chiếc bánh chưng, mỗi chiếc cả nhân nặng độ một cân. Gạo được vo rất cẩn thận, cho từng mẻ vào rá mới, mỗi mẻ chỉ một bát gạo dội nước giếng trong, không vo xát mà xóc xóc nhiều lần, giữ cho hạt gạo lành nguyên. Đậu xanh lòng vàng được chọn lọc kỹ, xay cho vỡ đôi, ngâm kỹ, đãi thật sạch vỏ rồi thổi chín, giã mịn. Nhân thịt lợn là mỡ khổ của con lợn ngon, không lẫn nạc, không có bì, được thái vuông vắn đều nhau. Lá gói bánh thường được chọn mua lá dong làng Diền (xã Hồng Thái ngày nay) trồng trên đất bãi phù sa sông Hồng mầu mỡ, lá to bản, không dầy, không giòn, mầu xanh mịn, chứ không dùng lá dong rừng dầy, giòn, xanh thẫm, không đẹp mầu bánh. Người gói bánh phải là tay thợ khéo, cẩn thận. Bánh gói tay vuông vức, cao thành, chặt tay, đều nhau như đúc. Nhân đỗ, thịt nằm giữa bánh, cách đều các cạnh, các góc. Bánh đạt tiêu chuẩn là khi bóc ra, mặt ngoài bánh có màu xanh phơn phớt mịn màng của mầu lá dong non, bên trong màu trắng, lớp nhân: Đậu vàng ươm, mỡ trắng. Khi sắt ra, phần nhân của miếng nào cũng đều bằng nhau, trông thật ngon mắt, thơm, béo ngậy, hấp dẫn. 31 chiếc bánh chưng thi, một chiếc được cắt ra để chấm thi. Bánh của ai được nhất cũng được rước đi thi ở nghè hàng xã, giải nhì, ba lễ ở đình và đền mẫu.

Thi gà, gạo, xôi, bánh chưng xưa là nét đẹp cổ truyền của làng Tạ Xá. Sản vật nông nghiệp dự thi sau khi tế thần được phân chia đều cho mọi gia đình trong làng. Tuy ít ỏi, chỉ một miếng nhỏ thôi, nhưng ai cũng quý, ai cũng thấy ngon vì đó là lộc Thánh, nên đã có câu “Một miếng xôi đình bằng ghính xôi nhà”.

Từ sau cách mạng Tháng Tám và những năm chiến tranh, hội làng bị gián đoạn không tổ chức được. Khoảng chục năm lại đây, Tạ Xá đã khôi phục lại hội làng tháng 3, gọn nhẹ hơn, 11 vào đám, 12 giã hội, được dân làng và người xa quê nhiệt tình hưởng ứng, với tinh thần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của cha ông, cùng nhau góp sức xây dựng quê hương ngày càng giàu dẹp, có đời sống tinh thần - văn hóa phong phú.

Lễ hội tháng 3 năm 2003, Tạ Xá đã tổ chức trở lại tục thi gà. Lễ hội tháng 3 năm 2004 này, Tạ Xá khôi phục trở lại tục thi bánh chưng theo cách thức của cha ông đời trước.

Báo Hà Tây

dark
01-01-1970, 07:00 AM
Lễ hội đình Thần Thắng Tam


Ðình Thần Thắng Tam là một quần thể kiến trúc gồm có 3 di tích: Ðình Thần Thắng Tam, miếu Bà Ngũ Hành, lăng ông Nam Hải.

Theo truyền thuyết Ðình Thần Thắng Tam thờ chung cả ba người đã có công xây dựng nên ba làng Thắng ở Vũng Tàu, đó là: Phạm Văn Dinh, Lê Văn Lộc và Ngô Văn Huyền. Hàng năm lễ hội Ðình Thần Thắng Tam được tổ chức trong 4 ngày từ 17 đến 20 tháng 2 âm lịch. Ðây là lễ hội cầu an, là thời điểm kết thúc và mở đầu cho một mùa thu hoạch tôm cá.

Phần lễ diễn ra rất cầu kỳ: cúng tế, lễ vật tế thần, dâng hương quỳ lạy, chiêng trống, kèn nhạc... và có rất nhiều điều kiêng kỵ như heo dùng để tế lễ phải có bộ lông cùng màu, người có tang không được tham gia vào việc nghi thức tế lễ. Phần hội có nhiều trò vui chơi giải trí như múa lân, hát bội...

Lễ hội Ðình Thắng Tam là một hoạt động văn hoá đặc sắc của ngư dân miền biển Vũng Tàu. Lễ hội mang đậm nét văn hoá dân gian và bản sắc dân tộc.

ST

dark
01-01-1970, 07:00 AM
Lễ hội chùa Bà Thiên Hậu


Chùa Bà Thiên Hậu là một di tích văn hoá của tỉnh Bình Dương. Chùa được kiến trúc theo lối cổ, là nơi thờ tự tôn nghiêm, một điểm hành hương rất quen thuộc của người dân Bình Dương, Bình Phước và một số tỉnh lân cận.

Lễ hội chùa Bà hàng năm được tổ chức vào 3 ngày từ 13 đến 15 tháng 1 âm lịch. Ðêm 13/1 âm lịch, nhân dân ở thị xã Thủ Dầu Một bày bàn ra trước nhà để cúng tế chuẩn bị cho lễ rước Bà ngày hôm sau. Dân chúng các vùng lân cận cũng đổ về đây khá đông.

Sáng 14 lễ rước Bà được tổ chức theo nghi thức cổ truyền: kiệu Bà được rước đi khắp các đường phố cùng với những đội múa lân, sư tử, rồng, cờ xí ngợp trời. Ngày 15/1 dân chúng lại kéo nhau về chùa Bà để thắp hương cúng lễ, cầu phúc, cầu lộc cho năm mới.

Lễ hội chùa Bà Lái Thiêu, Bình Dương là một lễ hội dân gian mang những nét văn hoá độc đáo riêng của vùng Ðông Nam Bộ

ST

dark
01-01-1970, 07:00 AM
Nét độc đáo trong lễ giỗ Nguyễn Trung Trực


Trước lễ giỗ chính thức 5-7 ngày hàng trăm người từ các tỉnh Ðông bằng sông Cửu Long đã kéo về ... để làm công quả. Họ chung tay sửa sang đền thờ, dựng trại, đắp lò nấu cơm... thành tâm như con cháu lo cung giỗ cho ông bà vâỵ nhiều người tiếp tục nấu cơm, rửa bát đũa, don dẹp cho đến hết lễ hội 3-5 ngày mới quay về nhà.

Trong lễ giỗ đóng góp là tuỳ tâm. Các bà, các chị buôn bán ở chợ thì thường 5-7 người góp lại gạo, rau cho đủ một xe đạp, xe lôi rồi gọi một xe nào ở gần, nói là gửi cho đền cụ Nguyễn. Chỉ cần nói vậy là đảm bảo số hàng trên được chuyển đến nợi chu đáo. Nhiều người đạp xe lôi còn không lấy tiền chở đò đến đền cụ Nguyễn.

Trong và sau lễ giỗ 3-5 ngày, nhân dân tự nguyện kê lo ở một khu riêng trong đền để nấu cơm chay phục vụ miễn phí cho tất cả khách đến dự lễ. Cơm và thức ăn được dọn lên mâm, ai đói cứ việc ăn, ăn xong lại có người dẹp. Nhà bếp phục vụ bà con tư 3 giờ sáng đến 12 giờ đêm hàng ngày. Gạo và thức ăn do người dân hỷ cúng, năm nào sau lễ giỗ cúng dư và trăm kg và Ban quản lý đem tặng người nghèo.

Chị Sáu Hồng ở An Giang năm nào cũng về đền thờ làm công quả cho biết : "Ðoàn chúng tôi đi hơn 10 người, đạp xe từ An Giang qua đây làm tiếp nhà bếp. Khách ăn đông, làm mệt nhưng bù lại rất vui. Có lẽ chỉ ở lễ giỗ cụ Nguyễn mọi người mới được bình đẳng trước mâm cơm như thế. Giầu có hay sang hèn đến đâu đều được phụ vụ chu đáo ". Một du khách từ Nha Trang vào thì ngạc nhiên: "Tôi chưa thấy lễ hội nào đông mà trật tư như thế này. Ban ngày hay ban đêm đường phố chật như nêm nhưng không hề xẩy ra chuyện lộn xộn"

Khách xa đi thành đoàn có nhu cầu còn được bố trí chỗ ngủ chu đáo, miễn phí. Ðó có thể là trụ sở cơ quan nhà nươc hoặc nhà dân gần đền...

ST

dark
01-01-1970, 07:00 AM
Lễ hội Chol- Chnam-Thmey

Hằng năm, cứ vào đầu tháng tư dương lịch khi những cơn mưa đầu mùa bắt đầu rơi xuống, bà con Khơme các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long nói chung háo hức chuẩn bị đón một năm mới theo phong tục truyền thống.

Thật ra lễ đón mừng năm mới Chol- Chnam- Thmey chỉ chính thức bắt đầu vào khoảng 14/4 (năm nhuận bắt đầu vào ngày 13/4). Lễ hội Chol- Chnam- Thmey mang đậm nét văn hoá Phật giáo tiểu thừa: từ thời gian (gắn với Phật lịch), địa điểm tổ chức (nhà chùa), nghi thức lễ (tụng kinh, cầu phước, dâng cơm cho các vị sư sãi), và chủ tiến hành lễ (thường là các vị sư sãi) nên ngoài ý nghĩa mừng năm mới còn là lễ làm phước lớn của đồng bào Khơme. Trong ba ngày lễ hội (năm nhuận là bốn ngày), ngoài việc tham gia các hoạt động chính ở chùa, người Khơme còn tổ chức thể thao tranh tài giữa thanh niên các phum sóc như lễ giấu khăn, kéo co, cướp cờ, chọi trâu, hay đá cầu, bóng chuyền... Có nơi tổ chức văn nghệ như hát ayay, lam-thol...

Trong năm, ngoài lễ hội Chol- Chnam- Thmey, người Khơme ở Trà Vinh còn tổ chức các ngày lễ khác như Pithi Sene-Dolta (lễ cúng ông bà); Bon OK- Om-Bok (lễ cúng trăng), Chotsima (lễ mừng xây xong chùa mới)... và hầu hết được tổ chức tại chùa, mang đậm nét văn hoá Phật giáo. Chùa Khơme ngoài chức năng là nơi sinh hoạt tín ngưỡng còn là nơi giao lưu trao đổi văn hoá cộng đồng.

Hơn 30% dân số tỉnh Trà Vinh là đồng bào Khơme, có hơn 100 ngôi chùa (nhiều ngôi được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá quốc gia như chùa Ông Mẹt, chùa Âng, chùa Sam- Krông- Ek...) với kiểu hợp mái độc đáo và những hoạ tiết trang trí sặc sỡ, thường khép mình dưới những tán dầu đại thụ, trên những giống cát được phủ kín bởi những cây thốt nốt to khoẻ, xanh um.

Trà Vinh còn là điểm dừng chân, thưởng ngoạn của du lịch với di tích ao Bà Om nổi tiếng miền Tây Nam bộ- một địa danh độc đáo gắn với nét văn hoá Khơme. Chùa Cò, chùa Dơi, biển Ba Động... cũng là những điểm du lịch khá lý tưởng nếu như chúng được khai thác, kết hợp tổ chức một cách đúng mức và khéo léo vào những dịp lễ hội truyền thống.

Về Trà Vinh khi những hạt mưa đầu mùa lất phất bay, khi những tán lá thốt nốt vừa vươn mình thay lá, khi bông băng lăng vừa trổ tím góc sân chùa... du khách có dịp biết đến những nơi mà phồn hoa chưa từng chạm tới để đắm mình trong không khí lễ hội Khơme độc đáo đầy màu sắc tín ngưỡng và để ngắm các cô thiếu nữ Khơme duyên dáng trong điệu múa lam-thol...

Theo Tuổi trẻ chủ nhật

dark
01-01-1970, 07:00 AM
Lễ hội Đua ghe ngo


Người Khmer ở Ðồng bằng sông Cửu Long có đến vài chục lễ nghi một năm, trong đó có 3 lễ truyền thống của dân tộc. Lễ mừng năm mới, mừng tuổi (chol chnam thmay) lễ cúng ông bà (đon ta), lễ cúng trăng lễ Oc om bok vào rằm tháng 12 (Kdoek). Lúc này lễ vừa mừng mùa cấy trồng mùa mưa kết thúc, vừa là lễ hết một năm. Cử lễ vào ngày răm, ngày trăng tròn sáng nhất. Với người theo đạo Phật ánh trăng còn là ánh sáng của Ðức Phật Thích Ca Om bok là cốm đẹp.

Trong lễ cúng trăng, cốm dẹp là lễ vật quan trọng nhất. Trước lễ cả tháng nhà nhà đã lo chuẩn bị. Họ ra ruộng nếp lựa từng bông lúa chín tới về giã nên mẻ cốm thơm dẻo.

Oc om bok là đút cóm dẹp, cho trẻ con được hưởng cốm cúng trăng. Người già đút cóm cho từng đứa trẻ rồi vỗ lưng chúng hỏi con ước mơ gì ? Từng đứa trẻ nói lời mơ ước. Người lớn nghe xem đó là những "điềm" báo tương lai mùa tới, ngày sau. Sau khi hưởng kễ cúng là cuộc sống vui chơi tưng bừng.

Dịp lễ Oc om bok, cũng là dịp lễ hội đua ghe ngo (umtuk), một lễ hội được tổ chức hằng năm từ mấy trăm năm nay ở đồng bằng sông Cửu Long.

Truyền thuyết kể: Ngày xưa, có một ngày nước lụt đột xuất lên mênh mông giữa giờ nhọ. Các con sóc vội dùng ghe xuồng chở thật lẹ các vị sư đang đi khất thực về chùa. Về sau người ta tổ chức đua ghe ngo để nhớ lại sự việc đó...

Lễ hội đua ghe ngo ngày xưa được mở tại vàm sông này. Ðến kì hội ghe chở sư sãi, chở lương thực, chở người xem kéo tới chật dòng. Các ghe đua tới tự bắt cặp đua từng đôi, từng đôi. Ngoài đua ghe còn dàn khán võ, còn tổ chức hát dù kê, kịch rô băm...Trước 1975 cuộc đua được tổ chức ở Guida.

Từ 1977, lễ hội đua ghe được tổ chức với quy mô lễ hội văn hoá thể thao cấp toàn quốc tại Sóc Trăng.

Những chiếc ghe ngo là vật dụng sinh hoạt văn hoá được chế tạo, bảo quản ở trong chùa của sóc.Chiếc nào chiếc náy sơn phết, trang trí rực rỡ, đầu đuôi cong vút, oai nghiêm dáng con vật mang biểu tượng của chùa.

Những rồng vàng, bạch tượng, bạch mã, ó biển, sư tử. Những thân ghe như thân rồng, rắn, cá sấu lội sông nước dài 25m, 58, 60 con dần là những thanh niên được sóc bình chọn vừa có đức vừa có sức khoẻ vào cuộc đua với quyết tâm đem thắng lợi về cho phum sóc. Những ghe chùa Tam Sóc, Tập Rèn, Chăm Pa, Xẻo Me, Ngan Dừa...là những gương mặt nổi tiếng xưa nay. Trong số này ghe Chùa Tam Sóc đã được vinh dự đi dự cuộc đua ghe ngo mừng 10 năm giải phóng Cam-Pu-Chia năm 1998 với các đội ghe ngo của nước chủ nhà và nước Lào. Ðây là cuộc thi ghe ngo duy nhất có mặt 3 đội của 3 nước Ðông Dương từ xưa đến nay. Ðội Tam Sóc đoạt giải nhất -các báo nước bạn tán dương vô địch Ðông Dương. Chiếc ghe ngo là vật thiêng của mỗi chà. Mỗi ghe đều có thần ghe...Hầu như các thần là các Niềng. Nhưng trước đây phụ nữ bị cấm kị không được tới gàn nhà ghe (nông tuk) ở chùa, họ càng không có cơ hội làm con dầm. Từ 1992. Từ 1992 đến nay đã xuất hiện các đội đua ghe ngo nữ của huyện Kế Sách, huyện Long Phú...làm cho lễ hội thêm hào hứng.

Ở đồng bằng sông Cửu Long, không lễ hội văn hoá thể thao thu hút khán giả bằng lễ hội đua ghe ngo. Mỗi kì đua ghe 2,5 vạn, 3 vạn người đổ về thị xã Sóc Trăng. Người chật đuờng phố. Ðêm trước lễ không ngủ. Nhóm bạn, nhóm hội...Mời nhau ly rượu đế. Tiếng hát hầy hầy dô... vang khắp đường chính hẻm phụ tới sáng để rồi mọi người chen chật bên bờ kinh xáng thị xã, chen cả xuống ghe ngo lướt bay về đích.

Du lịch Việt Nam

dark
01-01-1970, 07:00 AM
Lễ cúng bến nước của đồng bào Êđê (Đắk Lắk)


Một trong những phong tục tập quán lâu đời nhất của đồng bào dân tộc Êđê là Lễ cúng bến nước được tổ chức hằng năm sau mùa thu hoạch để cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Đây cũng là một trong những hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng mang nhiều ý nghĩa tích cực trong đời sống tâm linh của đồng bào dân tộc Êđê.

Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương nên phong tục này đã được bảo tồn và tổ chức hàng năm nhằm đáp ứng lòng tin của đồng bào dân tộc và thể hiện chủ trương tôn trọng tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

Buổi Lễ cúng bến nước thường diễn ra như một ngày hội của buôn làng Êđê. Sau hồi chiêng ngân dài như đưa ta vào thế giới tâm linh sâu thẳm và trang nghiêm, Lễ cúng bến nước được bắt đầu bằng việc lễ cúng ông bà tổ tiên để thông báo cho ông bà về sự có mặt đông đủ con cháu trong buôn làng. Khi lễ cúng cho ông bà tổ tiên kết thúc, một hồi chiêng nữa ngân lên và đó cũng là khi thầy cúng bắt đầu làm lễ cúng Yàng (Trời) cầu mưa. Kết thúc lễ cúng Yàng, những hồi chuông dài tiếp tục ngân vang, những cô gái trong trang phục truyền thống, lưng đeo gùi, cùng mọi người theo bước chân thầy cúng về bến nước đầu buôn.

Lễ cúng bến nước diễn ra trong không khí linh thiêng, trang trọng. Thầy cúng đọc lời khấn cầu mong Thần nước mang nước, nguồn sức sống quan trọng nhất đến cho buôn làng. Sau lễ cúng những bầu nước mát ngọt được những người con của buôn làng gùi về trong niềm vui hân hoan. Mọi người lại quây quần bên nhau uống rượu cần trong âm hưởng rộn ràng của cồng chiêng Tây Nguyên – một di sản văn hoá phi vật thể của quốc gia.

Bên cạnh Lễ cúng bến nước còn nhiều Lễ khác như Lễ trưởng thành, Lễ ăn trâu, Lễ ăn cơm mới… của đồng bào dân tộc Êđê là dịp để tất cả đồng bào trong buôn quây quần tụ họp bên nhau. Bà con thêm tình đoàn kết, cùng chung nhau niềm vui để tiếp tục phấn đấu xây dựng đời sống ấm no hạnh phúc, buôn làng ngày một giàu đẹp hơn.

Du lịch Việt Nam

dark
01-01-1970, 07:00 AM
Hội đua voi


Sau mấy tháng hạn hán kéo dài, một cơn mưa như trút nước bất ngờ đổ xuống TP Buôn Ma Thuột một đêm cuối tháng ba vừa qua; nhưng ở buôn Đôn cách đó 30km lại chẳng được giọt nước nào!

Sáng hôm sau, chúng tôi có mặt ở sân vận động Buôn Đôn giữa rừng thưa để theo dõi một cuộc đua của 12 chú voi. Những “cỗ chiến xa” biết cử động ấy giáng những cái chân to như cột nhà lao nhanh về đích sau khi có lệnh xuất phát. Dân địa phương và du khách hào hứng tột độ khi tận mắt chứng kiến cuộc đua voi cực kỳ ngoạn mục. Sau cuộc đua là những màn biểu diễn khác của voi cũng rất hấp dẫn.

Có điều thật đáng tiếc: tại sao một hội đua voi... quá đã như thế lại không hề được quảng bá, “tiếp thị” trước để kéo du khách đến với Tây nguyên: chỉ có chừng hơn chục khách Tây, Nhật cùng khoảng trên 50 khách nội địa đến với buôn Đôn nhân sự kiện này. Trong khi đó những màn trình diễn voi tại Thái Lan thu hút hàng nghìn du khách khắp nơi.

Báo Tuổi trẻ

dark
01-01-1970, 07:00 AM
Lễ Kỳ An ở đình Châu Phú

Từ ngoài vào, bên trái là miếu thờ Sơn quân, bên phải là am thờ Ngũ hành. Bắt đầu gian chính điện, sau gian võ ca, là bàn thờ hội đồng, bàn thờ ông tượng, thờ thần Bạch mã, kế đó là bàn thờ thành hoàng bổn cảnh, bàn thờ hai ông: Đỗ Đăng Tàu (chánh vệ thuỷ): Lệ Văn Sanh (phó vệ thuỷ), rồi bàn thờ Thoại Ngọc Hầu, bàn thờ Nguyễn Hữu Cảnh. Hai bên là các ban thờ tả ban, hữu ban, tiền hiền, hậu hiền.

Vị thần chính được thờ trong đình Châu Phú là Nguyễn Hữu Cảnh. Ông là người có công với miền Nam Bộ nói chung, An Giang nói riêng. Năm 1698 ông nhận chức Kinh lược vào đất Gia Định, lần đầu tiên, tổ chức việc hành chánh, tạo nề nếp cho người dân đi khẩn hoang.

Năm 1700 ông chết, chúa Nguyễn Phúc Chu truy phong là hiệp tán công thần, đặc tấn chưởng dinh. các vua nhà Nguyễn, bắt đầu từ Gia long đều truy phong chức tước cho ông. Ngày 29 tháng 11 năm 1852, vua tự Đức phong ông là thượng đẳng thần, chuẩn cho làng Châu Phú, huyện tây Xuyên phụng thờ. Có lẽ khi ấy, ông được coi là thành hoàng làng Châu Phú. Bởi lẽ, trước đó, các cuốn sách về vùng này như Gia Định thành thông chí (Trịnh Hoài Đức), Đại nam nhất thống chí (các quan chép sử nhà Nguyễn) đều chưa chép gì về ngôi đình và việc thờ này. Hai cuốn sách đều nói, tại vùng này có đền thờ ông. Đại Nam nhất thống chí chép: "Đền thờ Lễ công ở địa hạt thôn Châu Phú, huyện Tây Xuyên, cựu trấn thủ Nguyễn Văn Thụy dựng đền này phụng tự Tiền thống suất chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh. Đến nay, hương hoả còn y như trước mà rõ có linh ứng"(1).

Việc đưa Thoại Ngọc Hầu vào thờ phụng ở đây, không rõ vào thời gian nào.

Với các ban thờ, nhân vật được phụng thờ như trên, lễ Kỳ Yên tại đình Châu Phú được tổ chức theo trình tự sau:

1. Lễ thỉnh sắc: Bắt đầu từ 7 giờ sáng ngày mùng 10/5 âm lịch tiến hành lễ thỉnh "sắc thần Nguyễn hữu cảnh" từ Nhà lớn về đình. Lễ này rất long trọng, có xe hoa, long đình, chiêng, trống, học trò lễ v.v... các vị trong ban quản trị đình thần mặc áo dài khăn đóng đi hầu phía sau. Sau lễ thỉnh "sắc thần Nguyễn hữu cảnh" là lễ thỉnh "Sắc thần Thoại Ngọc Hầu" tại phủ thờ của ông Nguyễn Khắc Mi (cháu nhiều đời của Thoại Ngọc hầu), sắc thần của hai ông chánh vệ thuỷ Đỗ Đăng Tàu và phó vệ thuỷ Lê Văn Sanh.

2. Lễ túc yết: Lễ túc yết được diễn ra theo trình tự nghi thức dân gian truyền thống thường thấy ở các đình trong tỉnh An Giang. Đúng một giờ đêm ngày 11/5 âm lịch Ban quản trị của đình đã tề tựu đông đủ để bắt đầu cúng túc yết. Chịu trách nhiệm chính ở buổi lễ cúng là ông chánh tế- cũng là trưởng ban quản trị đình.

- Lễ vật chính dâng cúng trong buổi lễ túc yết gồm có một con heo trắng (heo đã mổ xong, cạo sạch, chưa nấu chín), một chén đựng huyết, một ít lông heo gọi chung là "mao huyết", một mâm xôi, một trái cây, một mâm trầu cau, một đĩa muối, gạo. Các lễ vật được bày trên bàn, riêng con heo trắng được đặt sấp, thân phủ lên một giá gỗ cao. Ngoài ra còn có những lễ vật khác do nhân dân mang đến dâng cúng.

Bắt đầu vào lễ, ông chánh tế đến dâng hương lễ trước bàn thờ, rồi lần lượt Ban quản trị thay nhau vào lễ. Kế đến là phần "Khởi chinh cổ", sau khi đánh ba hồi trống gỗ và ba hồi chiêng mõ. Ban nhạc lễ với các nhạc cụ dân tộc bắt đầu trỗi lên, lễ dâng hương, chuốc tửu, tiệm trà bắt đầu.

Diễn tiến của buổi lễ đều theo sự điều khiển của người xướng lễ.

Sau khi dâng hương, dâng ba tuần rượu gọi là chuốc tửu và dâng trà gọi là tiệm trà, theo lời xướng của người xướng lễ, bản văn tế (văn chúc) được mang đến trước bàn thờ. Ban tế quỳ xuống "đọc văn", trong khi ban nhạc lễ trỗi nhạc để phụ họa cho giọng đọc. Dứt bài văn tế, ông chánh tế nghỉ cúng, đốt văn bản này và một ít giấy tiền vàng bạc, phần nghi thức lễ túc yết coi như đã xong.

3. Lễ xây chầu và hát bội. Sau khi lễ túc yết xong, là đến lễ xây chầu và hát bội được tổ chức tại gian võ ca phía trước chính điện. những người tham dự cũng ăn mặc chỉnh tề xếp thành hai hàng nhưng từ cửa chính điện trở ra. Trên gian võ ca, tất cả diễn viên đoàn hát bội hoá trang, trống mõ sẵn sàng. Ông chánh bái ca công (Chủ trì lễ xây chầu) nhúng cành dương vào tô nước cầm trên tay vẩy ra xung quanh và đọc lời cầu nguyện:

- "Nhất sái thiên thanh". (Trời thêm thanh bình)

- "Nhị sái địa linh" (Đất thêm tươi tốt)

- "Tam sái nhơn trường" (Người được sống lâu)

- "Tứ sái quỷ diệt hình" (quỷ dữ bị tiêu diệt).

Đọc xong, ông chánh bái đánh ba hồi trống và nói: "Ca công- tiếp hát", lập tức trống mõ của đoàn hát bội rộ lên và chương trình hát bội được bắt đầu. Đoàn hát rất nhiều xuất với các tích tuồng xưa như: Trần Bình Trọng, Sát Thát, Trưng nữ Vương, Lưu kim Đính, Sơn hậu...

4. Lễ Chánh tế: vào 3 giờ sáng ngày 12/5 âm lịch bắt đầu lễ chánh tế, nghi thức diễn lại như lễ túc yết là sau phần dâng trà là phần âm thực mang ý nghĩa truyền thống. Phần thưởng của thần ban cho vị chánh tế.

5. Lễ nối sắc: Tiến hành vào lúc 13 giờ ngày 12/5 âm lịch- ngày cuối cùng của lễ hội. Nghi thức cũng giống lễ thỉnh sắc. Lễ hội kỳ yên tại đình thần Châu Phú đến đây là kết thúc.

Lễ hội này thu hút đông đảo nhân dân quanh vùng qui tụ về với lễ vật trên tay, người nào cũng trang phục chỉnh tề, quỳ lạy trước bàn thờ và cầu nguyện thần linh sao cho mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an, mùa màng thuận lợi, sản xuất phát triển, nhân dân ấm no.

Như thế, lễ Kỳ Yên ở đình Châu Phú mang hai lớp ý nghĩa vừa tưởng nhớ một vị có công khai phá miền Nam Bộ, vừa cầu mong một cuộc sống no đủ. Cho nên, đây là một sinh hoạt văn hoá dân gian đáng được bảo tồn, duy trì và tạo điều kiện phát triển.


Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam

dark
01-01-1970, 07:00 AM
Tây Nguyên: Bức thông điệp cầu an

Trong các lễ hội mang tính cộng đồng, người Cơ Ho Lâm Đồng nói riêng và người thiểu số Tây Nguyên nói chung thường tổ chức đâm trâu với ý nghĩa hiến sinh để cầu an.

Trong lễ đâm trâu, ngoài con vật hiến tế (trâu) còn có một "cây linh hồn" khác được gọi là gùng lgang stàng liep (cây nêu) với tục lệ bôi máu con vật hiến tế được hiểu như là một thông điệp cầu an gửi đến các thế lực siêu nhiên, nhất là thế lực siêu nhiên thuộc tuyến thần ác.

Sau lễ rửa chân trâu, lúc koi me (lúa mẹ) ngậm sữa là lúc dân làng chuẩn bị cho ngày hội sapu (ăn trâu) tạ ơn thần linh. Hội đồng già làng họp lại để lên danh sánh khách mời ở những buôn xa bản gần. Hội đồng này cũng chuẩn bị cho sự hòa giải những mâu thuẫn và đôi khi còn có cả những mối hận thù giữa các thành viên trong cộng đồng mình và giữa cộng đồng mình với các cộng đồng khác.

Còn những người phụ nữ thì ngồi vào khung dệt chuẩn bị cho mình bộ váy rực rỡ nhất. Và có lẽ công phu nhất vẫn là việc chuẩn bị cây nêu, dài khoảng hai, ba chục mét.

Mỗi lần sapu diễn ra thì tất thảy đàn ông, đàn bà, người già, trẻ nhỏ đều không được ngủ. Những ché rượu cần được xếp quanh vòng cây nêu. Bên cây nêu, những thù hận phải được gột rửa, những hiềm khích phải được xóa bỏ. Bởi, cây nêu đã nói thay lời già làng rằng cuộc sống này phải có tình thương yêu.

Báo Lao động

dark
01-01-1970, 07:00 AM
Lễ hội đua bò của dân tộc Khơ - Me


An Giang, mảnh đất có nhiều di tích lịch sử, danh thắng và lễ hội mang đậm nét bản sắc văn hóa dân gian, trong đó có lễ hội đua bò kéo bừa truyền thống là nét sinh hoạt văn hoá, môn thể thao độc đáo và đặc sắc của đồng bào dân tộc Khơ-me vùng Bảy Núi An Giang.

Lễ hội đua bò được tổ chức vào lễ "Đôn ta" (lễ cúng ông bà), từ ngày 9 đến ngày 10 tháng 10 âm lịch hàng năm. "Đôn-ta" là một trong những lễ hội lớn mang tính truyền thống của người Khơ-me để biểu lộ lòng tưởng nhớ, biết ơn đối với tổ tiên và công lao của những người đã khuất.

Sau khi đến chùa làm lễ rước vong linh ông bà tổ tiên về cùng chung vui với gia đình, người Khơ-me thường kết những bè chuối để làm thuyền, trên thuyền bày đủ các phẩm vật đã cúng, mỗi thứ một ít, sau đó đem thả xuống dòng nước cạnh nơi ở hoặc ao hồ, sông rạch gần nhà... Cũng vào dịp này, khách đến thăm phúm, sóc sẽ được bà con Khơ-me đón tiếp nồng hậu, tiếp đãi chu đáo. Vì họ quan niệm khách là sứ giả của tổ tiên về thăm gia đình, con cháu... Trong lễ ''Đôn-ta" ngoài tập tục thả thuyền, người Khơ-me còn tổ chức hội đua bò truyền thống. Để chuẩn bị cho cuộc đua bò, họ chọn một khoảnh ruộng bằng phẳng, chiều dài chừng 200m, ngang 100m có nước xăm xắp, được “trục” xới nhiều lần cho có độ trơn của bùn, bốn bên có bờ bao và điểm đích có đoạn đường trống để làm độ dừng an toàn cho bò. Đoạn đường đua chính chỉ cần 120m theo khoảnh ruộng cặp sát bờ bao. Nơi xuất phát được cắm 2 cây cờ màu xanh, đỏ mỗi cây cách nhau 5m, và tại điểm đích cũng vậy. Đôi bò nào đứng ở vị trí cây cờ màu gì thì điểm đích cũng theo màu của cây cờ đó.

Trước khi vào cuộc đua, họ chọn từng đôi bò với nhau hoặc bốc thăm và thoả thuận một số qui định cần thiết như ai sẽ đi trước, đi sau... Nhưng thông thường đôi đi sau có phần ưu thế hơn. Nếu trong khi đua, đôi bò nào chạy tạt ra khỏi đường đua sẽ bị loại và đôi bò sau giẫm lên giàn bừa của đôi bò trước là thắng cuộc. Còn người điều khiển phải đứng thật vững nếu bị ngã hoặc rơi ra khỏi giàn bừa coi như thua cuộc.

Từng đôi bò được ách vào một chiếc bừa đặc biệt, gọng bừa là bàn đạp gồm một tấm gỗ rộng 30cm, dài 90cm, bên dưới là răng bừa. Người điều khiển bò cầm roi mây hoặc khúc gỗ tròn vừa tay độ 3cm, đầu có tra cây đinh nhọn - cây xà-lul. Khi bắt đầu lệnh xuất phát của trọng tài, người điều khiển chích mạnh cây xà-lul vào mông con bò, bò bị đau phóng nhanh về phía trước, quan trọng là phải chích cho đều cả hai con thì vận tốc của đôi bò mới quyết liệt và hấp dẫn. Điều này có khác với đua ngựa ở chỗ là mỗi người cưỡi một con, ai về đích trước sẽ thắng cuộc. Ngày hội đua, từ sáng sớm bà con đã có mặt đông đảo tại địa điểm đua bò. Có người ở cách xa hàng vài cây số cũng mang theo cả xoong, nồi, mắm, muối nấu ăn tại chỗ để xem cho trọn vẹn cuộc đua. Chỗ xem cũng không cần cầu kỳ như xem bóng đá, đua ngựa hay một số môn thể thao khác, chỉ cần đứng ở vị trí hơi cao so với mặt sân đua hay leo lên bờ bao là đủ. Từ lúc cuộc đua bắt đầu cho đến kết thúc không khí lúc nào cũng tưng bừng và hào hứng, tiếng vỗ tay, reo hò, sôi nổi cổ động dành cho những người điều khiển các đôi bò giỏi hoặc những pha về đích gay go, quyết liệt.

Quê Hương

dark
01-01-1970, 07:00 AM
Lễ bỏ mả của người Gia Rai Mthur

Người Giarai Mthur thuộc một nhóm người Giarai vừa khá lớn vừa khá đặc biệt của dân tộc Giarai. Địa bàn cư trú chính của người Giarai Mthur là huyện Krông Pa và phía nam huyện Ayun Pa (xã Ia Rbol) của tỉnh Gia Lai. Nếu nhìn trên bản đồ, chúng ta sẽ thấy, người Giarai Mthur sống ở phía đông nam của tỉnh Gia Lai và cũng thuộc phía đông nam địa bàn cư trú của người Giarai. Nơi cư trú của người Giarai Mthur nằm gọn trong khu vực giáp ranh với hai nhóm dân tộc lớn cùng thuộc ngữ hệ Malayô - pôlinêdiêng; người Chăm ở phía đông. Điều khá đặc biệt là, cái tên Mthur (nghĩa là nghèo nàn) không chỉ là cái tên để chỉ một nhánh của người Giarai mà cũng là cái tên chỉ một nhánh người Êđê phía đông - người Êđê Mthur. Còn người Giarai Mthur ở giáp với người Chăm (như ở xã Đắc Bằng, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai) lại tự gọi mình là người Chăm Hroi. Ngoài người Êđê Mthur ra, người Êđê Ktul, Êđê Mã Laiô và Êđê Kđrắc đều có rất nhiều nét tương đồng về văn hóa với người Giarai Mthur. Do đó, có thể nói, trong văn hóa truyền thống của người Giarai Mthur có nhiều sắc thái chung cho cả người Êđê và người Chăm Hroi. Ngay trong tang ma nói chung và lễ bỏ mả nói riêng của người Giarai Mthur, theo những kết quả điều tra nghiên cứu của chúng tôi, có không ít những yếu tố gần với người Êđê.

Theo quan niệm của người Giarai Mthur ở Đắc Bằng và Ia Rto, khi người ta chết thì hồn người chết (m'ngắt dêi) biến thành ma (atầu). Sau khi làm lễ bỏ mả, hồn ma của người chết mới được đi tới thế giới của bà Jung, các hồn ma sinh sống và làm việc như những người sống, nghĩa là cùng ăn uống, lấy vợ, lấy chồng, ốm đau và chết. Sau khi chết, hồn ma biến thành con nhện (vak vai). Bà Jung thả con nhện lên mặt đất. Khi chết, nhện biến thành giọt sương (ia ngom) rồi tan vào đất. Bà Jung lấy đất có thấm giọt sương đó làm ra người - rồi cho nhập vào những người phụ nữ có chửa. Khi người phụ nữ sinh con thì hồn ma lại trở về với kiếp người. Người Ê Đê cũng có những truyền thuyết và quan niệm tương tự về buôn làng tổ tiên (buôn Atao) do vợ chồng thần Băng Bơ Dung, Băng Bơ Đai cai quản. Vì thế, để cho hồn ma của người chết đến được với buôn làng của tổ tiên, người Giarai Mthur và các nhóm người Êđê phía đông đều có tục làm lễ bỏ mả cho người chết. Tập tục này đã có từ lâu và còn tồn tại cho đến tận hôm nay. Ngay trong các trường ca (khan) của người Giarai Mthur và người Êđê, có những đoạn nói về lễ bỏ mả thật sinh động. Ví dụ, trường ca Xing Nhã của người Êđê và Giarai mô tả việc Xing Nhã làm lễ bỏ mả cho cha mình như sau: "Mãn mùa lúa. Vào một buổi sáng đẹp trời, sương trốn nắng. Xing Nhã sai nô lệ vào rừng chặt cây kơnia, chặt những cây gòn to nhất để dựng nhà mồ cho cha là Giarơ Kốt ở gần núi Bơlô. Tin ấy truyền đi buôn phía đông. Tin ấy lan sang làng phía tây. Từ người Bi Kơrông sống dọc bờ sông, tối người Mơnông cắm lông chim trên đầu ở bên bờ suối; tất cả đều nô nức mang rượu,thịt, chiêng trống đến mừng chàng Xing Nhã dựng nhà mồ cho cha". Còn lễ bỏ mả cho Đăm Bi và Xinh Chơ Niếp được trường ca Xinh Chơ Niếp mô tả: "Về phần Chiêm Tơ Mun, thì sau mấy mùa trăng lặn, trăng lên, sức khỏe của mẹ chàng đã phục, làn da đã trở lại như xưa. Một buổi tối đầy sao, nhiều gió, chàng gọi Chiên Mơ Nga tới nhà bàn việc làm lễ bỏ mả cho Đăm Bi và Xinh Chơ Niếp. Sau đấy, họ đem rượu ra uống suốt mấy ngày liên tiếp bên đồi Lơ Mui. Mả Xinh Chơ Niếp và Đăm Bi làm chung một chỗ, xây chung một hướng. Cây nêu cao tận trời, khắc chạm tận gốc. Bốn phía mồ đều đẽo tượng gỗ lớn. Tượng ngồi, tượng đứng, trông rất linh thiêng. Trai gái ở buôn gần dắt bò, ở buôn xa đem rượu tới ăn lễ. Chiêng trống không ngừng, nhảy múa không ngớt. Âm vang, chấn động cả vách núi, lưng trời".

Mặc dầu không còn những lễ bỏ mả lớn của các tù trưởng lớn mà các trường ca mô tả, nhưng người Giarai hôm nay vẫn làm cho người chết những ngôi nhà mồ kút (bơxát kut hay nok kut). Đồ sộ uy nghi và tổ chức lễ bỏ mả trọng thể, đông vui.

Như các nhóm Giarai khác, người Giarai Mthur vẫn giữ tục chôn chung và bỏ mả chung. Do đó, để tổ chức được lễ bỏ mả, trước đó cả tháng trời, các gia đình có người chết cùng dân làng đã phải bắt tay vào chuẩn bị. Mọi người phải lên rừng chặt gỗ đem về đẽo các cột kút, kơlao, chạm khắc tượng người, tượng thú, phải chuẩn bị rượu, thịt, gạo nước cho lễ bỏ mả. Chỉ sau khi mọi thứ đã làm xong, lễ bỏ mả mới có thể tổ chức được.

Người Giarai Mthur thường chọn những ngày trăng sáng nhất (tuần thứ hai tức tuần trăng tròn của tháng) để bắt đầu làm lễ bỏ mả hay ăn bỏ mả (hoă lui bơxát) như người Giarai thường gọi. Khi vầng trăng của ngày 14 đã nhô lên treo lơ lửng trên đỉnh các cây cột kút và klao của nhà mả (tức khoảng 10-11 giờ đêm) các gia đình có người thân phải làm lễ bỏ mả cùng cả dân làng tấp nập đi ra khu nhà mồ đã được dọn dẹp sạch sẽ để bắt đầu lễ hội bỏ mả của làng. Vì thế mà người Giarai Mthur gọi hôm đầu tiên của lễ bỏ mả là ngày vào nhà mả (mưt bơxát).

Trước khi cuộc vui của lễ hội bùng lên, người chủ của lễ (người đại diện cho gia đình có người chết được chôn đầu tiên ở khu nhà mả) đến bên ngôi nhà mồ mới, xụp trước bàn thờ (P'nang) đã bầy sẵn rượu, thịt cúng và đọc bài cúng với những lời mở đầu như sau: lễ bỏ mả đến ngay sau lưng rồi. Từ nay, người sống ăn cơm trắng, còn ma thì ăn cơm đỏ, ăn hoa tím, hoa đỏ của các thần... Sau đấy, người chủ lễ mới bày tỏ tâm tư và nguyện vọng của những người sống: "xin ma đừng gọi, đừng lại gần, đừng thương yêu con cháu nữa. Từ nay, chúng tôi sẽ không còn mang cơm, sẽ không còn mang nước cho ma nữa. Nếu muốn ăn thịt gì, xin ma hãy hỏi thần Trăng; nếu muốn ăn cá, ăn thịt, xin may hãy hỏi thần trên trời. Thôi, từ nay, thế là hết, như lá m'nang đã lìa cành như lá m'tư đã tàn úa".

Khi tế cúng vừa xong, thì lập tức, trong ánh lửa bập bùng của hàng chục đống lửa và dưới ánh trăng mát dịu, tiếng cồng chiêng rộn rã nổi lên. Theo nhịp âm thanh cồng chiêng mọi người hòa vào đoàn múa diễu quanh ngôi nhà mồ nhấp nhô huyền ảo trong đêm. tiếng nhạc cồng chiêng của đêm bỏ mả, như một sức hút diệu kỳ, kéo tất cả dân làng, kéo bà con họ hàng ở buôn gần, buôn xa tới. Càng về khuya, tiếng cồng chiêng càng rộn rã, thôi thúc, các đống lửa càng bùng to hơn, nhịp chân múa nhảy càng rộn rã hơn. Hầu như suốt cả đêm cho đến sáng, cả làng quây quần bên ngôi nhà mồ: ai múa nhảy cứ múa nhảy, ai đánh cồng chiêng cứ đánh; ai uống rượu cứ uống, ai mệt thì ngủ ngay bên những đống lửa ấm áp để sáng hôm sau bước vào ngày hội chính của lễ bỏ mả - ngày vỡ (p'chăh) hay ngày ăn lớn (hoă prong).

Sáng hôm hoă prong, vào khoảng 6, 7 giờ sáng, các gia đình cùng chung làm lễ bỏ mả dắt trâu hoặc bò đến buộc quanh ngôi nhà mả; đem những ché rượu tới cột thành từng hàng dài bên nhà mả. Sau đấy, những con vật bị giết đem thui và làm thịt. Thịt, xương trâu bò được chế biến ra thành nhiều loại thức ăn, nhiều món thức ăn: có loại dành riêng để chia cho những người chết được gọi là thịt tế lễ (m'nong dưm), có loại để chia cho những người tới dự (chơnút m'nong). Khi thức ăn đã được chế biến xong, các bà, các chị nổi lửa đun nấu thức ăn rồi chia ra những chiếc mâm lá chuối được bày la liệt quanh ngôi nhà mồ.

Trong khi dân làng lo chuẩn bị cho bữa ăn lớn hay bữa cơm bỏ mả (hoă sơi bơxat), thì các gia đình có người chết đem mía (phun tbou) và chuối (phun a'tơi) đến trồng bên cạnh nấm mộ, đem gói cơm và gói thịt cùng ché rượu và con gà nhỏ (ană mnu) đặt lên mộ rồi ngồi khóc lần cuối vĩnh biệt người chết. Để không khí hôm bỏ mả đỡ buồn, dân làng và khách các nơi tới đánh cồng chiêng, múa nhảy thành đoàn đi quanh nhà mả. Đến quá trưa, cả khu nhà mả thật sự đã thành một bữa ăn cộng cảm lớn. Từng tốp, từng tốp ngồi quây quần bên các mâm cơm (mâm bằng lá chuối) cạnh những ché rượu cần vừa ăn uống vừa trò chuyện vui vẻ. Các bà, các cô cũng đem phần cơm, thịt và rượu vào nhà mả để những người trong các gia đình có người chết ăn uống và tâm sự lần cuối với người thân đã khuất của gia đình mình.

Lúc bữa cơm cộng cảm kết thúc cũng là lúc người chủ lễ đến bên bàn thờ đọc lời cúng bỏ mả với nội dung như sau: "Xin ma đừng gọi, đừng lại gần, đừng thương yêu con cháu của ma nữa. Chúng tôi đã làm nhà mồ rồi, đã tạc những cột kút, cột klao, đã vẽ những hình vẽ bằng máu trâu, máu bò rồi. Ché rượu cúng đã đặt xuống mà rồi, con gà con đã được thả rồi. Chúng tôi đã bỏ ma rồi". Đợi cho người chủ lễ đọc lời khấn xong, mọi người vào nhà mả đưa những người góa ra sông tắm, chải đầu, mặc áo váy, khố mới cho họ rồi đưa họ về khu nhà mồ đang rộn ràng tiếng cồng chiêng và nhịp chân múa nhảy. Ai nấy đều vui vẻ, hồ hởi mời, kéo những người góa vào vòng múa của dân làng. Lúc này, những người góa không còn xõa tóc, không còn mặc khố, váy bẩn rách của thời kỳ để tang nữa. Lúc này họ đã mặc lên người những bộ quần áo lễ hội mới, đã nở nụ cười trên môi. Khi những người góa nhập vào đoạn nhảy múa của dân làng là lúc họ đã được giải phóng, đã không còn phải ràng buộc gì với người đã chết nữa. Từ nay, họ được sống cuộc sống bình thường như mọi người, nghĩa là được đi ăn uống vui chơi ở các lễ hội, được quyền tái giá nếu họ muốn. Nước sông đã rửa sạch những năm tháng chịu tang trên người họ, lễ cúng cuối cùng đã cắt đứt mọi quan hệ giữa họ và những người chết. Còn những hồn ma của người chết thì, sau lễ cũng cuối cùng, đã được con gà con đưa về buôn làng tổ tiên bắt đầu một cuộc sống mới - cuộc sống của những hồn ma để chu kỳ tiếp theo sẽ lại trở về làm người.

Sau những vòng múa tưng bừng sôi nổi giữa dân làng và những người góa, lễ bỏ mả coi như đã kết thúc và mọi người ai nấy về nhà nấy, bỏ lại phía sau ngôi nhà mả xinh đẹp mà mình vừa làm xong cho thời gian và thiên nhiên hủy hoại. Trước khi ra về, mọi người bốc thóc ném lên mái nhà mồ rồi tranh nhau cướp lấy một số hạt thóc từ mái nhà mồ rơi xuống đem về để được phúc và để mùa tới làm ăn thịnh vượng. Khi mọi người ném thóc lên mái nhà mồ, ông chủ lễ nói lời cuối cùng tuyên bố (p'thao) bỏ mả: Thế là xong hết tất cả rồi. Gia đình và dân làng đã bỏ mả rồi. Từ nay chúng tôi không còn dính líu gì với nhà mả nữa. Từ nay, nếu xảy ra chuyện gì không hay, không tốt với nhà mả thì cũng đành vậy thôi vì chúng tôi không còn gì dính líu nữa.

Mặc dầu các nghi lễ đã chấm dứt, ngôi nhà mồ đã bị bỏ và các hồn ma đã ra đi, những hội lễ bỏ mả còn tiếp tục thêm một ngày nữa tại các gia đình của những người chết vào ngày hôm sau. Hôm đó, bà con họ hàng tới thăm hỏi, ăn uống, vui chơi cùng các gia đình tại nhà họ chứ không ra nhà mả nữa. Thức ăn còn gì, gia chủ đem hết ra đãi khách. Vì thế ngày cuối cùng này của lễ bỏ mả được gọi là ngày rửa nồi (săch go).

Ngô Văn Doanh

dark
01-01-1970, 07:00 AM
Lễ hội cúng biển ở Mỹ Long - Vĩnh Long

Hàng năm, cứ vào ngày 11 và 12/5 âm lịch, hàng vạn người từ khắp nơi trong và ngoài tỉnh Trà Vinh tề tựu về xã Mỹ Long, huyện Cầu Ngang (Trà Vinh) để dự lễ hội cúng biển của dân địa phương. Lễ hội được ngư dân tổ chức linh đình tại Miếu Bà Chúa Xứ với nhiều nghi thức vui lạ thu hút sự hiếu kỳ của du khách gần xa. Buổi sáng ngày 11/5 âm lịch, ban tổ chức làm lễ nghinh Chúa Xứ Nguyên nhung, trong đó có cảnh cha con Quan Vũ mở đường cho phu kiệu đưa bà xuống thuyền. Những nhân vật Quan Công, Châu Xương, Quan Bình do những kép hát bội được rước từ Bến Tre sang; có hai thuyền phò tá hai bên và những thuyền khác hộ tống phía sau. Thuyền ra khơi, diễu hành trên biển trông rất ngoạn mục. Vị pháp sư sẽ đọc cú còn ông Chánh bái thì vừa quỳ vừa xin quẻ, cho đến khi được quẻ âm dương (1 sấp, 1 ngửa), coi như được bà cậu chứng giám thuyền mới quay về.

Đến chiều, khi mặt trời lặn là bắt đầu vào lễ tế Chúa Xứ Nguyên nhung, có hương chức đọc văn tế và lễ xướng. Trong dịp này có tiết mục rất là sôi động, đó là màn múa bông của các cô bóng từ nhiều nơi tựu về. Họ cùng nhau tranh tài múa hát dâng mâm vàng mâm lộc cho bà khiến du khách có cảm tưởng đây là "Đại hội liên hoan các bóng miền Tây". Múa bóng gần đây được xét lại là một nghệ thuật nhờ sự khổ luyện và tách khỏi yếu tố thần bí dị đoan nên được ưa chuộng.

Ngày thứ hai (12/5 âm lịch) có lễ nghinh Ngũ phương. Lần này thì kiệu đi đường bộ, vừa đi vừa đánh trống vòng qua 4 hướng qua chợ Mỹ Long và các ấp lân cận. Hai bên đường kiệu đi, theo tập tục nhà nào cũng đặt những chung muối gạo trước cửa với ý nghĩa cúng cô hồn, sợ chúng vào nhà quấy nhiễu. Trong đoàn có ông Quan Công ngồi trong giá thờ được dân làng khiêng đi. Ông Quan Công này do một kép hát bội tên Thơ (82 tuổi) trước đây thường đóng vai vua trong các vở tuồng nên dân làng quen gọi là vua Thơ, mấy chục năm cứ vào dịp này là vua Thơ vẽ mặt y hệt như Quan Thánh Đế quân ngồi kiệu, nay ông đã già nhưng vẫn còn oai phong.

Đúng ngọ ngày 12, ban tổ chức đặt heo quay lên chiếc tàu, có đáy kết bằng chuối cây, vỏ tàu bằng nan tre, được dán giấy vẽ màu giống như tàu thật, trong tàu có đủ tài công, thủy thủ và các vật dụng đi biển làm bằng giấy. Khi tàu chở đầy đủ lễ vật: heo cúng, gạo, muối; lúc đó vị pháp sư "điều binh khiển tướng" xuống tàu chở "chư vị" ăn uống no say để tống ra khơi. Tàu dần trôi theo dòng nước - chuông trống vang lên. Đến khi trên bờ không còn thấy nữa thì một hồi trống kết thúc buổi lễ này.

Có lẽ trước đây người dân miền biển nặng đầu óc mê tín, tổ chức cúng kiến để mong được sự bình yên trong cuộc sống. Ngày nay dường như lễ được tổ chức là để mọi người trong làng có dịp vui chơi cùng nhau, những nghi thức được xem như những tiết mục đặc sắc trong một sân khấu lớn mà mọi người trong làng cả năm mới được tái diễn. Do vậy, những du khách từ Trà Vinh đến TP.HCM không quản ngại đường xa đã đến chung vui với ngư dân vùng biển Mỹ Long này.

Theo Quê Hương

dark
01-01-1970, 07:00 AM
Người Bana - Chăm với lễ hội xây cột đâm trâu

Ba Na - Chăm? Hay Chăm - Ba Na? Hay là Chăm? Ba Na?... Chỉ biết rằng chiến tranh và mưu cầu cuộc sống đã đẩy hai tộc người vốn khác xa nhau về ngôn ngữ, tín ngưỡng, tập tục... đến gần nhau, hoà vào nhau để sống. Xây cột đâm trâu là lễ hội lớn nhất của đồng bào Ba Na - Chăm sống ở phía Đông dãy Trường Sơn.

Theo lời kể của già làng thì xưa nay ở Thồ Lồ, Xí Thoại (vùng đất tiếp giáp giữa ba tỉnh Gia Lai - Bình Định - Phú Yên), người Ba Na và người Chăm có 3 lễ lớn, đó là Tết đổ đầu (mừng lúa mới), Lễ bỏ mả và Lễ hội xây cột đâm trâu. Tuy không phải năm nào cũng tổ chức, nhưng xây cột đâm trâu vẫn là lễ hội lớn nhất.

Thường thì khi gặp tai ương, rủi ro, mùa màng thất bát, hay dân làng đau ốm, súc vật chết cả đàn..., người Thồ Lồ làm gà, nhấc rượu vái Giàng và hứa sẽ tạ ơn bằng một con trâu. Ngày qua tháng lại, Giàng phù hộ cho lũ làng tai qua nạn khỏi, thóc gạo đầy nhà, cuộc sống vui vẻ ấm no... sau ba năm, buôn làng xây cột đâm trâu, làm lễ tạ ơn như đã hứa với Giàng. Chuẩn bị xây cột, lũ làng phải có một con trâu đực tơ, ba bốn con bò, dăm bảy con heo, mấy chục con gà, cả trăm ché rượu với vài ba chục gùi gạo để mời khách các buôn làng chung quanh cùng đến chung vui. Lễ xây cột đâm trâu rất tốn kém, nhưng được lòng Giàng, được lòng các thần và lại có tiếng khen truyền tụng xa - gần... vì vậy cả làng cùng ra sức chuẩn bị thật đầy đủ, chu tất.

Trước ngày tổ chức lễ khoảng bốn năm mùa trăng, già làng chọn địa điểm xây cột rồi trồng xuống một cây gòn (plang) hoặc là cây cốc (long ch'muôn) làm cột chính. Đến khi cây đâm chồi, đúng ngày lành tháng tốt dân làng dựng nêu, xây cột xung quanh. Xong lễ, hạ nêu nhưng cây cột tươi xanh ấy sẽ thành cổ thụ tỏa bóng sum suê che chắn cho buôn làng.

Dân làng quan niệm Lễ tạ ơn phải dọn đường thật kỹ, đón rước thật cẩn trọng, uy nghi thì Giàng, ông bà tổ tiên và thần linh... mới vui lòng chứng giám. Công phu nhất vẫn là việc chuẩn bị cột, dựng nêu. Bốn cây cột chân nêu làm bằng gỗ bút trắng tinh được những bàn tay khéo léo chạm khắc hoa văn rồi tô màu bằng nhựa cây dưng nấu với nước than rừng đen ánh. Giàn nêu làm bằng cây lồ ô càng đẹp, càng rực rỡ thì lễ hội càng tưng bừng, việc cầu cúng càng linh hiển. Bàn thờ đón Giàng thiết trên đỉnh cột chính được bọc vải điều rất cung kính, xung quanh là những bức tranh đan bằng lồ ô nhuộm đủ sắc màu và những tua, những dải, những đồ vật...

Sau ba hồi cồng vang vọng núi rừng, lễ cúng rước diễn ra trong nhà rông, trước sự chứng kiến của những người đàn ông có uy tín nhất làng (thường bắt đầu vào buổi trưa). Lễ vật chính là một ché rượu quý, một con heo sống để nguyên, đặt chính giữa nhà, đầu hướng về phía mặt trời lặn. Sau khi thầy cúng báo rằng Giàng đã về (ứng với lá keo sấp ngửa), mọi người uống hết ché rượu rồi bắt đầu xuống sân dắt trâu vào cột để cúng dâng.

Tiếng cồng chiêng lại nổi lên, năm thanh niên mặc plai (lễ phục) dắt trâu buộc vào cột. Năm thầy cúng cũng mặc plai xuống sân cầu khấn. Ba con gà trống mới gáy lần đầu, ba tô rượu, một tô gạo to, một dây sáp trắng ứng với ba bài cúng liền nhau và ba hồi xin keo. Nếu mà Giàng thuận lòng thì cả ba lần xin keo âm - dương không thay đổi và xem như phần đầu lễ đã xong. Liền sau đó, lũ làng diện quần lành, áo đẹp nắm tay nhau hướng vào vật tế thần, cùng xoay ba vòng theo nhịp cồng chiêng.

Khi chiều xuống, lũ làng chia thành từng tốp ra đầu suối đón khách. Khách cũng diện quần áo mới, đem theo cả cồng chiêng hòa với tiếng hát chào mời, cùng nắm tay múa đủ ba vòng mới chuyển sang phần thăm hỏi. Đoàn khách nào đến cũng thế. Thầy cúng vẫn ngồi giữa sân, quay lưng về hướng mặt trời, mắt luôn nhìn theo "vật tế thần" do một đoàn người dắt xoay vòng quanh cột. Đón xong khách cũng là lúc phải nghỉ ngơi, ăn uống để chuẩn bị "hết mình" với rượu cần, với cồng chiêng Arap suốt đêm thâu. Đây cũng là dịp chủ với khách trổ tài múa hát và con trai, con gái giao duyên.

Sáng sớm hôm sau, trước khi đâm trâu phải làm lễ cúng Giàng. Người Ba Na - Chăm ở vùng này không đâm trâu chết tại chỗ mà cử một thanh niên có kinh nghiệm chém hai nhát tượng trưng vào hai bên mông trâu. Sau đó những người đàn ông lực lưỡng vật trâu ngã xuống để cắt tiết và cắt đầu. Công việc tiếp theo là thui trâu, chuẩn bị mâm cỗ ăn mừng. Đầu trâu sẽ được rước vào nhà rông một đêm để cúng Giàng, sang ngày thứ ba mới rước ra ngoài và lũ làng lại diện quần áo đẹp khiêng đầu trâu nhảy múa ba vòng quanh nhà rông. Lúc này già làng mới cúng các Giàng lần cuối. Lá keo linh ứng sẽ cho biết thời khắc tắt nến để hạ nêu.

Lễ xây cột đâm trâu của người Ba Na - Chăm ở Phú Yên có nhiều điểm khác với lễ xây cột đâm trâu của các dân tộc vùng cao Tây Nguyên. Nhưng có lẽ đều giống nhau ở phần thiêng liêng nhất: Lễ hội làm cho đức tin, niềm yêu thương và sức mạnh của con người nhân lên gấp bội để chiến thắng tai ương, đẩy lùi nghèo khó!

ST

dark
01-01-1970, 07:00 AM
Hội Đổ giàn

Hằng năm vào ngày rằm tháng 7, nhân dân huyện An Nhơn thường đổ về làng An Thái, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định để dự lễ Vu Lan - báo hiếu của nhà Phật – xem hát bội và những cuộc thi tài. Cũng như nhiều chùa khác ở Việt Nam, vào dịp này nhà chùa trong lễ cúng cô hồn, xá tội vong nhân, thường dựng rạp làm chay (tức lập đàn cầu nguyện cho mọi oan hồn được siêu thoát), tổ chức hát bội cả ngày và đêm. Ngày rằm tháng 7 cũng là tết Trung nguyên của đạo Lão. Cảnh nhà chùa mở hội đón khách thập phương vào dịp này đã được phản ánh trong câu ca dao xưa:

Đồn rằng An Thái, chùa Bà
Làm chay, hát bội đông đà quá đông
Đàn bà cho chí đàn ông,
Xem xong ba Ngọ, lại trông Đổ giàn.

Nhưng sức hấp dẫn của hội chùa Bà không chỉ ở chỗ có "làm chay, hát bội" mà còn vì một lý do khác là hội được tổ chức ngay nơi mảnh đất giàu truyền thống thượng võ: Làng An Thái. An Thái thuộc huyện An Nhơn, là làng võ từng sản sinh ra những võ sư và võ sĩ xuất sắc của đất Bình Định. Dĩ nhiên vào những dịp hội hè, việc tổ chức thi đấu côn, quyền là tiết mục không thể thiếu được. về dự hội, cũng là dịp để các môn đệ thăm viếng, gặp lại bạn bè đồng khoá, đồng môn và cũng là dịp để các võ sĩ thử tài cao thấp trên võ đài. Tuy nhiên không cuộc vui nào hấp dẫn và cuốn hút nhiều người như hội xô cỗ (người Việt gọi là xô giàn, về sau gọi thành đổ giàn – Theo Quách Tấn – Quách Giao, Võ nhân Bình Định).

Người ta thiết lập một cái đàn cúng cao (hình dung như một dàn giáo hẹp, cao khoảng mười mét, bằng tre, gỗ. Trên đó người ta đặt đàn cúng thần gồm hương, hoa, trà, quả và một heo quay để nguyên con, khoảng độ mười lăm, vài chục ký. Khi nghi lễ chuẩn bị kết thúc, đám đông bên dưới trở nên xôn xao, rộn rịp. Những người yếu, người già, phụ nữ và trẻ con thì dãn ra vòng ngoài để cho những võ sĩ và những người khoẻ tiến vào. Những người tiên phong lên giàn hườm sẵn trong tư thế chuẩn bị lao lên, mắt hướng về phía giàn cao, chờ đợi....

Sau những nghi thức cúng lễ cổ truyền như thường thấy ở các lễ hội làng quê, vị chủ tế tuyên bố xô giàn, cho phép cuộc tranh tài bắt đầu. Các võ sĩ tài nghệ cao, phi thân lên giàn tìm cách cướp lấy con heo quay.Sau đó phải luồn lách, lao ra khỏi đám đông, mang con heo quay chạy về địa điển an toàn đã định. Tất nhiên, mỗi nhóm tranh tài đã có phân công người bảo vệ, cản ngăn những đối thủ lợi hại khác có thể giật lại ngay trên tay. Trong cuộc tranh tài này, các võ sỹ dùng tất cả ngón võ, chiến thuật khôn ngoan để giành chiến thắng về mình. Rất nhiều lần hội đổ giàn đã để lại "nợ nần" giữa các phái võ trong vùng, thậm chí cả những lò võ ở tỉnh lân cận như Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hoà. Hội đổ giàn không phải chỉ một mình Bình Định có nhưng hội đổ giàn của An Thái bao giờ cũng thu hút người tham dự đông nhất và "con heo quay" của An Thái cũng được xem trọng nhất.

Theo tục lệ con heo quay chiến lợi phẩm này được đem xẻ ra để khao chung cho tất cả những võ sĩ cùng có mặt trong cuộc tranh tài này. Những võ sĩ, hay làng võ có người giành được phần thắng được mọi người hoan nghênh và nể trọng và họ tin rằng năm ấy họ sẽ gặp hên vì được "lộc của thần". Thường thì những lò võ ở An Thái và huyện Bình Khê hay giành được vị trí đó. Vì vậy mới có câu: "Tiếng đồn An Thái, Bình Khê, nhiều tay võ sĩ có nghề tranh heo". Heo đây là heo quay, vật cúng thần trong ngày hội. Ý nghĩa của cuộc thi tài này không nằm trong giá trị vật chất của món quà giành được mà ở giá trị tinh thần, được thể hiện qua tài nghệ của những người dự cuộc với chỗ đứng danh dự trong làng võ.

Hội Đổ giàn là một cuộc tranh tài lý thú và hấp dẫn của một vùng quê giàu tinh thần thượng võ được kết hợp một cách hài hoà với ngày hội chùa theo truyền thống dân gian: rằm tháng bảy. Nhưng về càng về sau sự ganh đua giữa các phái võ, bang hội mỗi lúc một căng thẳng, nhiều phái tham dự hàng chục lần nhưng không một lần được nếm mùi heo đổ giàn An Thái đã kết thành thù oán. Tính chất sát phạt, hằn thù mỗi lúc một nặng. Đến giai đoạn những năm kháng chiến chống Pháp thì chính quyền Việt Minh cấm hẳn để bảo vệ đoàn kết dân tộc, dồn sức đánh thực dân Pháp xâm lược. Trước năm 1975, nhiều lần chế độ cũ đã cho mở lại hội này nhưng rất èo uột và hội đổ giàn chỉ còn trong kỷ niệm.

Saigonnet

dark
01-01-1970, 07:00 AM
Lễ hội cổ truyền phố cổ Hội An

Hội An, tỉnh lỵ cũ tỉnh Quảng Nam, một phố cổ miền Trung, có truyền thống thường xuyên tổ chức nhiều lễ hội, mỗi năm theo âm lịch, bởi tại đó, phần lớn cư dân đều là con cháu của các thương gia Hoa kiều, những nhà lập nghiệp tiên phong đến Hội An đã mấy trăm năm, đã chịu ảnh hưởng nhiều của văn hóa Khổng Giáo, nên tổ chức các lễ hội tùy theo thời tiết trong năm. Tết Nguyên Ðán cử hành xong, tiếp theo là những đêm hát bội công cộng miễn phí tại các Chùa, các Bang Hội Hoa kiều, trong suốt tháng giêng, cử hành đại lễ Rằm Thượng Nguyên, tháng hai thì liên hoan giữa các chùa, tháng 3 thì tiết Thanh Minh, tảo mộ, tháng tư lễ Phật Ðản v.v... cư dân muốn tìm những sinh hoạt náo nhiệt qua các lễ hội vui nhộn hầu lay động không khí tĩnh mịch của phố cổ nầy. Ngoài những lễ lớn 2 lần trong một năm mà thường gọi là Xuân kỳ, Thu tế, ngày trước, tại Hội An cư dân hay tổ chức thường niên, 3 loại lễ hội lớn, mà mỗi khi nhắc đến thì người dân Hội An hiểu rõ tường tận. Ðó là lễ Xô Cộ, lễ Cúng Xóm và lễ Siêu Bạt và Soi Môi.

1.- Lễ Xô Cộ:

Lễ nầy thường tổ chức vào tháng giêng hay tháng 7 âm lịch, có mục đích dâng cúng các phẩm vật lên các vị thần hộ mạng thờ trong chùa các Bang Hội, cầu xin sự an bình trong cuộc sống, sự tiến đạt trong công việc làm ăn, buôn bán, và dâng cúng cho các giới vô hình như ma, qủy, các cô hồn...khỏi quấy phá địa phương. Số người Hoa tại Hội An được sắp xếp vào 5 Bang Hội lớn: Quảng Ðông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và Gia ­ng. Mỗi Bang đều có riêng một Chùa, vừa làm chỗ thờ tự vị Thần Bổn Mạng bên trong, vừa làm văn phòng điều hành bên ngoài, và 2 cánh 2 bên dùng làm hội trường và phòng họp. Ngoài việc tổ chức các ngày rằm lớn: Thượng Nguyên, Trung Nguyên và Hạ Nguyên để dâng lễ cúng bà Thiên Hậu Thánh Mẫu, vị thần bảo hộ các thuyền nhân trên biển cả, Quan Thánh Ðế Quân hay Phục Ba đại tướng Mã Viện, các Bang Hội còn tổ chức trọng thể lễ Xô Cộ tại các chùa Bang Hội. Mỗi Bang Hội tổ chức xô cộ riêng biệt của Bang Hội mình. Tùy theo khả năng tài chánh thu hoạch mỗi năm, tùy theo sự cầu nguyện của mỗi Bang Hội, các cộ quả phẩm dâng cúng được đặt làm theo tiêu chuẩn khác nhau, như cộ heo, cộ bánh, cộ gạo nếp, cộ muối, cộ trái cây v.v... Mỗi cộ có một sườn cốt làm bằng tre, đan vành tròn làm đế, và trên đế tre nầy, người ta đan một vĩ tre hình chóp nón, bên ngoài phất bằng giấy màu, thường là màu vàng hay đỏ từ dưới đế lên tận trên chóp cộ. Nếu là cộ heo, thì phải dùng 3 con heo quay, rọc xẻ trước ngực, căng 4 chân, gắn úp vào trên sườn giàn tre chóp nón. Nếu là cộ bánh, thì sườn tre được đắp bằng bánh như bánh thuẩn, bánh bò ngũ sắc, bánh lá đủ màu mang các danh hiệu các cửa tiệm buôn, hay các công ty đắp từ dưới đế lên tận trên chóp cộ, trông từ xa như một trái bắp mà các bánh là các hột bắp sắp theo hàng lối đủ màu. Nếu là cộ gạo muối thì sắp các bao vải đủ màu, to bằng nắm tay, độn gạo và muối cho căng đầy, may miệng bao lại, sắp từ dưới lên tới chóp, gắn trên đầu chóp một trái châu đỏ quay tròn theo gió như một chong chóng. Nếu là cộ bánh lá, bánh chưng hay bánh giò thì các bánh nầy cũng được sắp như vậy. Các cộ được đặt trên một giàn tre cao hơn 3 thước, dựng trước cổng chùa. Một vị cao tăng, đầu đội mũ hiệp chưởng, mặc điều y, ngồi trên giàn tre, tay bắt ấn, miệng trì chú lâm râm giữa âm thanh của chiêng trống vang rền pha lẫn với tiếng tang, linh theo nghi lễ Phật giáo, kêu gọi các linh hồn uổng tử, cô hồn thập loại tập trung đông đủ tại lễ đàn. Theo tiếng hú của vị Hòa thượng vừa dứt thì lệnh đẩy các cộ đầy quả phẩm được xô từ trên giàn tre xuống đất, do đó người ta mới đặt cho cái tên là Xô Cộ. Một số cư dân trong phố, trang bị gậy gộc, nai nịt gọn gàng đã tập trung sẵn dưới chân giàn, chờ cộ xô xuống là nhào vô giành chiếm. Những binh sĩ các đồn trại cũng đứng chờ sẵn, xông vào giựt cả một cộ heo quay ôm chạy về đồn, có các đàn em bao che tập hậu, trong khi các băng đoàn khác đuổi theo giành lại trong tiếng la ó gào thét. Theo tin tưởng dân gian, người ta tin rằng những phẩm vật bắt được từ các cộ xô xuống mang nhiều may mắn, vì đó là các tặng phẩm của các vị thần linh đã làm phép, có khả năng làm cho những bệnh nhân kinh niên mau lành, con trẻ khó nuôi sẽ khoẻ mạnh chóng lớn. Lễ xô cộ nầy không còn tổ chức hằng năm nữa, vì Trung Hoa đã bị Nhật Bản chiếm đóng và quân đội Nhật đổ bộ ở bán đảo Ðông Dương nên cư dân người Hoa bỏ lễ hội nầy từ năm 1940.

2.- Lễ rước Long Chu và Cúng Xóm:

Lễ nầy không nhất thiết tổ chức đúng định kỳ, và tùy thuộc vào tình hình an ninh trong khu xóm. Khi một khu phố bị mất an ninh, như bị một bệnh dịch hoành hành, tư gia bị mất trộm hay hàng xóm thường hay gây gổ chưởi bới nhau vì một vài việc lặt vặt thì người ta nghĩ rằng khu xóm bị đất động và các vị thần quản nhiệm các khu xóm ấy quở trách, cần phải Cúng Xóm và rước Long Chu để trừ tà, trị quỷ đem lại bình an trong xóm. Một vài bô lão tự nguyện đi lạc quyên từng nhà trong xóm để gây quỹ tổ chức buổi lễ, sau đó chọn một góc phố nào đó dựng rạp, căng lều, che vải phía trên và bố trí bàn thờ, bài vị thổ thần, đầy đủ lư hương, chân đèn bằng đồng, trướng liễn, lọng tàn mượn của các nhà trong xóm, dâng đủ quả phẩm bông hoa và trái cây. Ngoài các lễ vật trên, còn có Long Chu. Long tức là Rồng, và Chu là chiếc thuyền làm bằng tre., bề dài khoảng 3 thước, bề ngang 1 thước rưởi, phất giấy màu ngũ sắc, mang hình một con rồng uốn khúc đủ cả râu ria, vi vảy, mắt lồi, nhe răng nhọn. Trên thuyền có bố trí một chỗ có ghế ngồi, bên cạnh một cột buồm bằng tre, trước mặt có chè xôi, chuối và giấy vàng mã. Trong buổi sáng ngày lễ, chiêng trống được gióng lên inh ỏi báo hiệu cho xóm biết buổi lễ cúng xóm bắt đầu để mọi người tập trung dự lễ. Một vị bô lão cao niên nhất trong xóm, mặc áo thụng xanh, đứng chủ tế cùng một số gia chủ thắp nhang khấn vái trước bàn thờ cầu mong sự bình an trong khu xóm, tiếp theo là lễ dâng sớ do một vị tăng sĩ rước từ chùa đến tụng kinh, và ông trưởng khu xóm qùy xuống đọc sớ văn theo nhịp điệu của chuông mõ, chiêng linh, tay bắt ấn, day mặt bốn phương hướng kêu gọi cô hồn các loại tập trung về đây để hưởng cúng thí thực. Vị pháp sư bốc những nắm muối gạo từ trong các tô lớn, miệng lâm râm niệm chú và tung vãi bốn phương, rót mấy tuần trà và rượu dâng lên bàn thờ và đốt các giấy vàng mã. Chiếc Long Chu được kê trên một cái giá gỗ đặt trước sân. Vị pháp sư miệng niệm chú, tay lần chuổi bước lên ngồi trên ghế đặt trên Long Chu, tay nắm chặt cột buồm và được đỡ bổng lên bởi 4 tay lực lưỡng mặc áo dài đen, bịt khăn, lưng thắt giây lụa đỏ ngang hông, khiêng trên vai giàn tre, trên ấy Long Chu được đặt và xuất hành từ nơi cúng để chạy rong trong thành phố. Thế là đám rước khởi hành mang theo sau một đám con trẻ và một số người hiếu kỳ rượt đuổi theo, khua chuông trống tạo thành những âm thanh rầm rộ, inh ỏi. Sau những người khiêng chiêng trống, có một số đi sau, cầm các roi dâu, vừa chạy vừa quất hai bên đường để đuổi tà ma chạy theo Long Chu. Các nhà bên lề đường đổ ra xem và có nhà đốt pháo và khua tiếng động đuổi tà, chạy theo Long Chu. Sau khi chạy qua các con đường chính, Long Chu đổi hướng chạy ra bờ sông và dừng lại ở bến sông, hạ Long Chu xuống đất, vị pháp sư bước ra khỏi thuyền. Long Chu được gở ra khỏi đòn tre và vị pháp sư khai hỏa đốt Long Chu và đẩy xuống nước, sau khi để cho trẻ con và các người ăn xin rước hết quả phẩm: chè xôi, cây trái. Ðoàn chạy Long Chu trở về lại xóm, vái trước bàn thờ và buổi lễ kết thúc. Rạp sẽ được hạ xuống, lư hương, chân đèn, liễn trướng, tàn lọng được tháo xuống đem trả lại cho gia chủ. Mọi người tỏ vẻ hân hoan nghĩ rằng các điều xấu xa, bất lợi đã được tống khứ theo Long Chu để đốt ra mây khói.

3.- Lễ Siêu Bạt và Soi Môi:

Lễ nầy phát xuất từ chùa Kim Sơn của Bang Hội Phúc Kiến vào dịp rằm tháng bảy Trung Nguyên để cúng Thiên Hậu Thánh Mẫu là vị Thần hay che chở các ghe thuyền buôn bán, vượt biển khơi, mà thủy thủ phần đông là người Phúc Kiến, để truy điệu những người mất tích và phải vớt vong hồn họ ra khỏi biển cả, siêu độ họ. Sau chánh điện của chùa Kim Sơn, sau bàn thờ của Thiên Hậu Thánh Mẫu, 2 bên có 2 vị thần Thiên Lý Nhãn và Thiên Lý Nhĩ, có thờ 6 vị tướng nhà Minh chống đối triều Mãn Thanh bị tử nạn trên đường vượt biển. Trong 6 vị tướng nầy, có một vị rất linh thiêng thường xuất hiện qua các đồng cốt, mặt màu xanh nên người Hoa thường gọi là ông Mặt Xanh. Nhiều giai thoại linh thiêng thường được kể về vị thần nầy, thường hay giúp đỡ các trường hợp oan ức mà nạn nhân đến kêu ca. Một gia đình công chức bị mất một số nữ trang dấu trong tủ và nghi là cô tớ gái trong nhà lấy. Cô nầy bị chủ nhà đưa ra pháp luật tra hỏi, oan ức quá, đến chùa Kim Sơn kêu oan. Ông tướng Mặt Xanh lên đồng qua một người buôn bán ngoài chợ, bổng nhiên người nầy chạy vào chùa Kim Sơn la hét, bảo mọi người chạy theo ông ta. Ðoàn người chạy thẳng vào nhà cô cháu gái của gia đình công chức mất nữ trang, ra sân sau và trong một chậu hoa để sau nhà, móc lên một gói giấy đựng số nữ trang bị mất, mà thủ phạm không ai khác là cô cháu gái của chủ nhà. Cô tớ gái được minh oan. Ông tướng Mặt Xanh nầy mỗi lần xuất hiện thích đi trên than hồng và những nhà hai bên phố thường đốt các lò than cho đỏ rực đem ra đổ ngoài đường, và những người lên đồng bước đi trên than đỏ ấy mà chân không bị cháy phỏng tí nào. Ngoài những vụ thi thố thần lực nói trên, ông Mặt Xanh còn giúp cho những người chết bất đắc kỳ tử như chết sông, chết tai nạn xe tàu hay những người tự tử hiện về khai với gia đình lý do của cái chết bất tử ấy, đồng thời siêu độ vong linh họ. Cư dân phố cổ Hội An đã một thời quen thuộc với các lễ hội nầy và không quên nhắc nhở những sự kiện xảy ra chung quanh các lễ hội nói trên, tiếc rẽ những đổi thay của xã hội đã đưa các lễ hội nầy vào quên lãng.

ST

dark
01-01-1970, 07:00 AM
Hội Đền Công


"Bỏ con, bỏ cháu không bỏ mồng sáu tháng giêng".
Mồng sáu tháng giêng (âm lịch) lễ hội Cổ Loa. Và chỉ sau đó 1 tháng 10 ngày, tại Diễn Châu -Nghệ An lễ hội tế Thần Thục An Dương Vương lại một lần nữa diễn ra: Lễ hội Ðền Công - 15 tháng 2 âm lịch. Ðây là một lễ hội lớn ở Nghệ An, thu hút hàng vạn lượt người từ khắp nơi đổ về trẩy hội. Không giống như lễ hội Cổ Loa, luôn có ba phần: lễ tế thần, lễ rước kiệu, khách thập phương dâng hương, vui hội, lễ hội Ðền Công chỉ có lễ tế thần, sau đó là các sinh hoạt văn hoá: hát tuồng, chèo, thả đèn hoa.

Mùa xuân, đến với Ðền Công không chỉ là dịp cầu phúc, cầu tài mà còn là dịp để lòng người ghi dấu đoạn kết của câu chuyện Loa Thành: An Dương Vương đem công chúa Mỵ Châu chạy trốn kẻ thù, tới Diễn Châu thì dừng lại. Nhận ra sự thật, vua chém con gái yêu rồi theo thần Kim Quy đi về phía biển... Truyền thuyết và lịch sử, thực và hư, những dấu tích đã rêu phong, đã hoen mờ cùng thời gian, chỉ còn lại đó là một Ðền Công linh thiêng và lòng ngưỡng vọng của nhân dân nhưng cũng đủ để ta rút ra bao điều đáng chiêm nghiệm...

Ðền Công là một di tích lịch sử đã được Nhà nước xếp hạng và cũng là một danh thắng mà bất cứ ai đã đến sẽ khó quên bởi sự kết hợp hài hoà giữa kiến trúc và cảnh sắc thiên nhiên như thể đã có một sự thoả thuận từ ngàn đời trước giữa tạo hoá và bàn tay con người.

Ðền nằm ở lưng chừng núi Mộ Dạ, ngay kề Quốc lộ I. Phía sau núi là biển cả mênh mông, ngày đếm sóng vỗ rì rào. Mỗi ban mai, vầng dương từ biển nhô lên phủ cho cảnh vật một vầng hào quang rực rỡ.

Ðứng từ Quốc lộ I nhìn lên, cổng Tam quan cao vời vợi. Ba tầng lầu như được tôn thêm vẻ cổ kính bởi lớp rêu phong và những cây si nảy mầm từ các kẽ đá bám rễ leo lên đến tận lầu thượng. Kiến trúc bên trong đền phần lớn đều được tu bổ lại nhưng dáng xưa vẫn còn đó trên các cây cột đồ sộ, những chạm nổi rồng phượng tinh xảo, những câu đối viết bằng chữ Hán của các quan lại, danh nho thời trước muốn tỏ lòng tôn kính với vua Thục An Dương Vương.

Bước vào bên trong đền thờ Thần An Dương Vương, ta gặp được cõi tĩnh mịch, trở ra ngoài lại thấy cảnh núi non, trời, biển... Chính cái địa thế ấy đã khiến tâm hồn con người thanh thoát như lời của rất nhiều du khách thập phương. Phải chăng vì lẽ đó hay vì sự linh thiêng của ngôi Ðền mà người đến với chốn ấy ngày một đông?! Những năm gần đây, du khách trẩy hội Ðền Công muốn vào thắp hương trong ngày tế lễ luôn phải vất vả vì chen chân từ dưới chân núi.

Lòng thành kính, cầu an khiến ngay chính những người tổ chức lễ hội cũng phải ngạc nhiên. Chốn ấy là đất thiêng "cho nên cũng tuỳ lòng tín ngưỡng của nhân dân chứ không ngăn cấm được" - (Lời của Phạm Hy Lương - quan phó bảng ở Nghệ An năm 1874 viết trong bài văn bia khắc vào đá ở đền).

Du lịch

dark
01-01-1970, 07:00 AM
Lễ hội làng Kiên Mỹ

Hàng năm, cứ vào mồng 5 Tết Nguyễn Ðán, khi phố phường thủ đô chưa nhạt màu xác pháo, những cành đào xuân vẫn đâm lộc nở hồng, thì người Hà Nội sớm ấy, đều nô nức đổ về phía tây nam thành phố đến Gò Ðống Ða (thuộc quận Ðống Ða) dự hội. Ðây là Lễ hội chiến thắng, mừng công tích lẫy lừng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, do Quang Trung- Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải Tây Sơn lãnh đạo. Cùng thời điểm đó tại nhiều nơi ở tỉnh Bình Ðịnh như làng Kiên Mỹ, thành Hoàng Ðế (tức thành Bồ Bàn xưa), nơi quân Tây Sơn đặt bản doanh thời kỳ đầu cuộc khởi nghĩa, thành phố Qui Nhơn... đều có tổ chức lễ hội kỷ niệm chiến công oanh liệt của Quang Trung- Nguyễn Huệ. Nhưng đông đảo và tưng bừng nhất vẫn là lễ hội tại làng Kiên Mỹ- quê hương và cũng là nơi dấy binh của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ.

Ngay từ ngày mồng 3 và mồng 4 Tết, nơi đây đã rộn rịp trong không khí chuẩn bị cho ngày hội. Người ta chăng đèn, kết hoa, treo cờ, dựng cổng chào, quét dọn, sửa sang đường sá, điện thờ, dựng sân khấu, trại, cả mô hình miêu tả lại trận đánh Ngọc Hồ- Ðống Ða lịch sử trên bãi cát bên bờ sông Côn... Từ chiều mồng 4, tại huyện lỵ Tây Sơn, khách từ các nơi xa cũng đã bắt đầu tề tựu về. Ðến sáng mồng 5 thì những dòng người từ phía Quy Nhơn và các huyện đồng bằng ngược lên, từ phía An Khê, Plây anh đổ xuống với đủ loại các phương tiện. Người ta thấy có mặt đầy đủ các tầng lớp già, trẻ, gái, trai ăn mặc đẹp đẽ về dự hội. Có những đoàn đại biểu từ các tỉnh bạn như Quảng Nam- Ðà Nẵng, Phú Yên, Khánh Hòa, có cả những đoàn khách từ Huế vào, từ Sài Gòn ra. Ðặc biệt các thầy cô nhiều tường học nhân dịp này, đưa học sinh của mình đến dự lễ như tham gia một buổi ngoại khóa về lịch sử sinh động nhất, nhằm nâng cao tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc chính đáng cũng như lòng biết ơn đối với tiền nhân. Vào những năm kỷ niệm chẵn, khách dự lễ còn gặp đoàn đại biểu của dân tộc Bana với trang phục ngày lễ độc đáo từ phía Tây Sơn thượng đạo về dự lễ, mang theo cả dàn cồng chiêng và những điệu múa thượng võ của họ.


Sau dây pháo nổ kéo dài đến 10 phút đồng hồ, tiếng trống đại vang lên giục giã báo hiệu buổi lễ khai mạc. Trong không khí trang nghiêm thơm ngát mùi trần, hàng ngàn người đứng trước sân điện thờ và nhà bảo tàng cúi đầu tưởng niệm vua Quang Trung và những tướng lĩnh, những chiến hữu của Người. Sau khi vụ chánh tế đọc bài văn tế ôn lại quá trình phát triển của phong trào tây Sơn mà đỉnh cao là chiến thắng Ðống Ða cùng những thành tựu về các mặt quân sự, kinh tế, văn hóa của triều đại Tây Sơn, các đoàn đại biểu bắt đầu dâng hương trước điện thờ. Cùng lúc đó, dàn nhạc võ 12 trống vang lên các khúc quân và khúc khải hoàn.

Khách dự hội bắt đầu tỏa ra tham quan các di tích chung quanh được xem được nghe kể những truyền thuyết, giai thoại, về các địa danh lịch sử như Bãi tập voi và Trường võ, nơi nữ tướng Bùi Thị Xuân, người đã từng chỉ huy đội tưọng binh trong đợt dàn quân chủ lực của Tây Sơn làm nên đại thắng Ngọc Hồi- Ðống Ða; hòn Tam Phước (thuộc xã Bình Giang), nơi đặt những lò rèn bí mật rèn khí giới chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa; đồng Cô Hầu (xã Tú An, huyện An Khê), nơi Nguyễn Nhạc giao cho người vợ thứ, con gái của một tù trưởng Ba Na, quản lý việc sản xuất lương thực nuôi quân; hòn Yến, hòn Lãnh lương, tương truền nơi Nguyễn Nhạc phát lương và khao thưởng quân sĩ: gò Dinh, gò Ðá Ðen, những bãi tập luyện của đội quân nông dân vào buổi đầu cuộc khởi nghĩa.

Ðến dự hội, du khách còn có dịp thưởng thức điệu múa trống võ Tây Sơn qua tài nghệ của một thiếu nữ tuổi đôi tám, mặc áo chẽn đỏ, quần màu hồng nhạt, lưng thắt dải khăn xanh, hai tay cầm dùi lướt trên 12 mặt trống một cách điêu luyện. Từng tốp nam nữ thiếu niên và thanh niên biểu diễn song kiếm, côn, quyền, đại đao... Ðây là lớp môn sinh của những lò võ nổi tiếng từ nhiều thế kỷ qua của một vùng đất giàu truyền thống thượng võ từng in dấu trong ký ức dân gian: "Roi Thuận Truyền, quyền An Thái".

Ðất Tây Sơn cũng là cái nôi của nghệ thuật hát bội đặc sắc. Khách về đây dự hội cũng là dịp để thưởng thức những đêm biểu diễn tuồng, hát bài chòi, nhắm rượu Bàu Ðá nổi tiếng với món thịt bò thưng cuốn với bánh tráng. Thịt bò thưng là món thịt bò rim khô với nước mắm ngon, đường, hạt tiêu và mè rang, đã có một thòi là món "lương khô" của nghĩa quân Tây Sơn trên đường hành quân thần tốc.

Du lịch

PHANDINH
01-01-1970, 07:00 AM
Cảm ơn bạn đã cho chúng mình những thông tin kỳ thú về các lễ hội. Mình rất thích (và mình nghĩ cũng có nhiều bạn thích như mình) đọc, tìm hiểu vấn đề này. Nếu bạn còn thông tin thì cứ gửi lên diễn đàn nhé, chẳng hạn như lễ hội Ông Tiêu ở Tầm Vu, Châu Thành tỉnh ta...Mình đã in tất cả bài của bạn để làm tư liệu rồi đấy!PhanDinh