PDA

View Full Version : Lịch sử vật lý


DeMen
01-01-1970, 07:00 AM
Trước hết, xin mạn phép nói qua rằng, lúc trước em học đội Lý, nhưng bây giờ lại là dân ngoại đạo. Nên chỉ dám nói be bé thôi, các anh chị, các bạn và các em thấy sai sót quấy quá thì chỉ bảo giúp :D

Xin được góp vui bằng mấy bài dịch về Lịch sử vật lý (nguyên bản tiếng Anh lấy từ http://encyclozine.com/History_of_Physics )

Let's go and enjoy!

DeMen
01-01-1970, 07:00 AM
LỊCH SỬ VẬT LÝ

Thời cổ đại :

Từ thời cổ đaị, con người đã cố gắng tìm hiểu bản chất của vấn đề: tại sao những vật thể không được nâng đỡ thì rơi xuống mặt đất, tại sao những vật liệu khác nhau lại có tính chất khác nhau, v.v... Tính chất của vũ trụ cũng là một bí mật, chẳng hạn như hình dạng Trái đất và hành vi của các thiên thể như Mặt trời và Mặt trăng. Nhiều lý thuyết đã được đưa ra, hầu hết đều sai, nhưng đó là một phần tự nhiên của nghiên cứu khoa học, và thậm chí những lý thuyết hiện đại về cơ lượng tử và thuyết tương đối cũng chỉ được xem đơn giản như là" những lý thuyết chưa bị phá vỡ". Lý thuyết vật lý thời cổ đại phần lớn được thể hiện trong triết học, và hiếm khi được kiểm chứng bởi các thí nghiệm một cách có hệ thống.

Thường thì hành vi và bản chất của thế giới được giải thích là do hành vi của Chúa trời. Khoảng năm 200 tr.CN, nhiều nhà triết học Hy Lạp đã bắt đầu cho rằng thế giới có thể được hiểu như là kết quả của các quá trình tự nhiên. Nhiều người cũng thách thức những quan niệm truyền thống thể hiện trong thần thoaị, như nguồn gốc của loaì người (dự báo trước những ý tưởng của Charles Darwin), dù điều này rơi vào lịch sử sinh học, không phải vật lý. Những người theo thuyết nguyên tử, cố gắng nêu lên bản chất của vấn đề , giống như công việc của chúng ta ngày nay.

Thiếu thốn những phương tiện hiện đại như kính thiên văn và các thiết bị đo đếm thời gian chính xác, thí nghiệm của nhiều ý tưởng như thế đã không thể thực hiện được. Có những ngoaị lệ, và có những sự sai lầm về thời gian: chẳng hạn, Archimedes đã tìm ra dấu vết của nhiều miêu tả định lượng chính xác của cơ học và cả thủy tĩnh học, như câu chuyện kể rằng, một ngày nọ, ông ta đã nhận ra rằng thân thể của ông chiếm chỗ một thể tích nước khi ông bước vào bồn tắm. Một ví dụ nổi tiếng khác là Eratosthenes, người đã suy luận Trái đất hình cầu, và tính toán chính xác chu vi Trái đất bằng cách sử dụng bóng của các thanh thẳng đứng để đo góc giữa 2 điểm cách xa nhau trên bề mặt Trái đất. Các nhà toán học Hy Lạp cũng đưa ra cách tính thể tích các vật thể như hình cầu và hình nón, bằng cách chia chúng ra làm nhiều phần rất nhỏ rồi cộng thể tích của từng phần lại - đưa đến phát minh về phép toán tích phân gần hai thiên niên kỷ sau.

Tri thức hiện đại trong những ý tuởng dầu tiên này trong vật lý, và quy mô thử nghiệm của chúng, là rất sơ saì. Hầu hết các bản ghi trực tiếp của những ý tuởng này đã bị mất khi Thư viện Alexanderia bị phá huỷ, vào khoảng năm 400 sau CN. Có lẽ ý tuởng nổi bật nhất mà chúng ta biết từ kỷ nguyên này là sự suy luận bởi Aristarchus xứ Samos rằng, Trái đất quay quanh Mặt trời 1 vòng trong 1 năm, và quay quanh trục của nó 1 vòng 1 ngày (tính toán các mùa và chu kỳ ngày đêm), và rằng các ngôi sao là những mặt trời khác ở rất xa và cũng có những hành tinh quay quanh nó (và có thể sự sống cũng tồn tại trên đó).

Khám phá của cơ học Antikythera đưa đến một sự hiểu biết chi tiết hơn về chuyển động của những vật thể thiên văn, cũng như sự sử dụng của các bánh xe vốn chưa đuợc biết đến trong những nền văn minh truớc đó. Phiên bản sớm nhất của động cơ hơi nuớc chỉ là một sự tò mò, không giải quyết đuợc vấn đề chuyển hoá năng luợng quay thành một dạng hữu ích hơn, kể cả khi dùng các bánh xe. Guồng quay của Archimedes vẫn đuợc dùng đến ngày nay, để đưa nuớc từ các con sông lên đất trồng trọt làm thuỷ lợi. Những máy móc đơn giản đã không đuợc tìm hiểu, một ngoại lệ (ít nhất) là quy luật đòn bẩy của Archimedes . Bơm thuỷ lực đã đuợc sử dụng nhiều thiên niên kỷ truớc Archimedes, để xây dựng Kim tự tháp.

Thật đáng tiếc là giai đoạn đi vào tìm hiểu về bản chất thế giới này cuối cùng đã bị bóp ngạt bởi khuynh huớng chấp nhận ý kiến của những nhà triết học nổi tiếng, hơn là cố gắng đặt câu hỏi và kiểm nghiệm những ý kiến đó. Nguời ta nói rằng, chính Pythagoras đã cố gắng đè nén kiến thức về sự tồn tại của số vô tỉ, đuợc khám phá bởi chính truờng phái của ông, vì nó không phù hợp với chủ nghĩa thần bí số học của Pythagoras. 1000 năm sau sự sụp đổ của Thư viện Alexanderia, mô hình vũ trụ địa tâm của Ptolemy (không nên nhầm với các triều đại Ptoleme của Ai Cập) với các hành tinh quay trên những quỹ đạo hoàn hảo đuợc chấp nhận như là một sự thật hiển nhiên.

(còn tiếp...)

DeMen
01-01-1970, 07:00 AM
Chúng ta nên đề cập đến vật lý học bên ngoaì Châu Âu trong giai đoạn này để làm cho câu chuyện lịch sử này cân bằng hơn.

Đóng góp của Hồi giáo cho vật lý

Khi thế lực của văn minh Hy Lạp bị lu mờ bởi đế quốc La Mã, nhiều bác sĩ Hy Lạp bắt đầu thực hành y học cho những người La Mã ưu tú, nhưng đáng buồn là khoa học vật lý đã không được hỗ trợ tốt như vậy. Sau sự sụp đổ của đế quốc La Mã, châu Âu bước vào cái gọi là Thời kì đen tối (Dark Ages), và hầu hết các nghiên cứu khoa học bị tạm dừng. Sự phát triển của Đạo Thiên Chúa đã xem sự đè nén và sụp đổ của triết học Hy Lạp (cùng với nghệ thuật, văn học, religious iconography Hy Lạp và La Mã) là không chính thống, là tà đaọ. Tuy vậy, ở vùng Trung Đông, nhiều nhà triết học tự nhiên Hy Lạp đã có thể tìm thấy sự hỗ trợ ở Đế quốc Ả rập vừa hình thành, và các học giả Hồi giáo đã tiếp tục những thành quả trước đó của thiên văn học và toán học, đồng thời phát triển những lĩnh vực mới như giả kim thuật (hóa học). Ví dụ, học giả Muhammad ibn Musa al-Khwarizmi đã đặt tên của ông cho cái mà ngày nay chúng ta gọi là thuật toán, và từ algebra (đại số) được bắt nguồn từ al-jabr, bắt đầu của tên một trong những tác phẩm mà trong đó ông đã phát triển hệ thống giải hệ phương trình 4 ẩn, mà thiếu nó thì vật lý hiện đại không thể phát triển.

Đóng góp của người Ấn:

Khó lòng tưởng tượng vật lý hiện đại mà lại thiếu hệ thống số học mà ở đó, từ những phép tính đơn giản dễ dàng có thể thực hiện những tính toán lớn. Hệ thống số đếm và khái niệm về số 0 lần đầu tiên được phát triển bởi người Ấn Độ và sau đó được tiếp thu bởi đế quốc Hồi giaó.

DeMen
01-01-1970, 07:00 AM
Thời Trung cổ:

Thầy tu Roger Bacon đã hướng dẫn các thí nghiệm về kính, dù rằng hầu hết là giống với những điều đã và đang được làm bởi các học giả Ả rập. Ông đã có một đóng góp quan trọng cho sự phát triển của khoa học châu Âu trung cổ, với việc viết thư cho Giáo hoàng kêu gọi khuyến khích nghiên cứu KHTN ở trường ĐH và biên soạn nhiều tập sách ghi lại thực trạng phát triển của tri thức khoa học trên nhiều lĩnh vực thời bấy giờ. Ông đã miêu tả cấu trúc của kính thiên văn, nhưng không có bằng chứng rõ ràng nào về việc ông đã tự làm lấy một caí. Ông cũng ghi lại cách thức ông tiến hành các thí nghiệm một cách rất chi tiết, nhờ đó người khác có thể thực hiện lại một cách độc lập để kiểm tra các kết quả của ông - đó là nền tảng của phương pháp khoa học, và là sự tiếp nối công việc của những nhà nghiên cứu như Al-Batani.

Sư sáp nhập quốc gia Hồi giáo cuối cùng trên bán đảo Iberian (1492) bởi hoàng gia Hispanic vừa hình thành, và sự sụp đổ của Constantinople dưới tay người Thổ (1453) đánh dấu buổi bình minh của thời kỳ Phục Hưng. Sự "tái sinh" của văn hoá châu Âu là một phần của sự tái khám phá những nền văn hoá Hy Lạp, Ấn Độ, Trung Hoa, Hồi giáo cổ đại trước đây và sự phát triển sau này của người Hồi giáo TK8 đến TK15, được các thầy tu Thiên chúa giáo dịch sang tiếng Latinh, chẳng hạn như Almagest.

DeMen
01-01-1970, 07:00 AM
Cuộc cách mạng khoa học

Cuộc CMKH có thể đuợc xem như là sự nở rộ của thời đại Phục hưng và là cánh cổng lớn để buớc vào nền văn minh hiện đaị. Nó bắt đầu với chỉ một vài nhà nghiên cứu, phát triển thành một phong trào mạnh mẽ tiếp tục đến tận ngày nay. Bắt đầu với thiên văn học, các nguyên tắc của triết học tự nhiên kết tinh vào trong các định luật cơ bản của vật lý đã đuợc trình bày và phát triển trong những thế kỷ tiếp theo. Đến truớc TK19, khoa học đã đuợc chia thành nhiều lĩnh vực khác nhau với những nhà nghiên cứu chuyên sâu và vật lý học, dù rất ưu tú, vẫn không thể tiếp tục cáng đáng vai trò đầu tàu cho các lĩnh vực còn lại của nghiên cứu khoa học.

TK16

Trong TK16 Nicholas Copernicus đã phục hồi mô hình nhật tâm của hệ Mặt trời vốn đuợc Aristarchus nghĩ ra (tồn tại một cách thoáng qua trong Sand Reckoner of Archimedes). Khi mô hình này đuợc xuất bản vào cuối đời Copernicus, nó đã đuợc kèm theo lời đề tựa của Osiander một cách ngoan đạo rằng đó chỉ là bằng chứng toán học của việc tính toán vị trí các hành tinh, và không phải là sự mô tả bản chất thực sự của quỹ đạo các hành tinh.

Ở Anh, William Gilbert (1544 - 1603) đã nghiên cứu từ học và xuất bản tác phẩm De Magnete (1600), trong đó trình bày rõ ràng kết quả của vô số các thí nghiệm của ông.

TK17

Đầu TK17 Kepler đã đặt công thức cho mô hình hệ Mặt trời dựa trên 5 nguyên tố cơ bản theo Platon, trong nỗ lực giải thích tại sao quỹ đạo của các hành tinh lại có kích thuớc tuơng đối như vậy. Sự thâm nhập của ông vào việc quan sát thiên văn chính xác tuyệt đối bởi Tycho Brahe đã cho phép ông kết luận rằng mô hình của ông mâu thuẫn với những quỹ đạo đã quan sát đuợc. Sau một nỗ lực phi thuờng trong 7 năm tiến tới một mô hình chính xác về sự chuyển động của Sao Hoả (trong quá trình đó ông đã đặt nền móng cho phép tính tích phân hiện đaị), ông đã kết luận rằng các hành tinh đi theo những quỹ đạo không tròn mà là elip, và Mặt trời nằm ở 1 tiêu điểm của elip đó. Khám phá này đã lật đổ một thiên niên kỷ của giáo lý dựa trên ý tuởng của Ptolemy về những quỹ đạo "hoàn haỏ" của những thiên thể "hoàn haỏ". Kepler sau đó đã đi vào xác lập công thức cho 3 định luật về sự chuyển động của hành tinh. Ông cũng lần đầu tiên đưa ra mô hình về sự chuyển động của hành tinh trong đó các lực bắt nguồn từ Mặt trời làm chệch huớng các hành tinh khỏi sự chuyển động "tự nhiên", khiến chúng chuyển động theo quỹ đạo cong.

Trong đầu TK17, Gallieo đã tiên phong trong việc sử dụng thí nghiệm để kiểm chứng các lý thuyết vật lý, ý tuởng cốt yếu của phuơng pháp khoa học. Việc sử dụng thí nghiệm của Gallieo, và sự thống nhất của Gallieo và Kepler rằng kết quả quan sát phải luôn đuợc ưu tiên so với kết quả lý thuyết (trong việc này họ đã tuân theo các nguyên tắc của Aristotle nhưng không theo cách ông thực hiện), phá bỏ sự thừa nhận giáo lý, và khai sinh một kỷ nguyên mà ở đó, các ý tuởng khoa học đuợc tranh luận rộng rãi và kiểm tra nghiêm ngặt. Gallieo đã tìm ra công thức và kiểm nghiệm thành công nhiều kết quả trong động lực học, bao gồm cả đinh luật đúng đắn về chuyển động có gia tốc, quĩ đạo parabol, tính tuơng đối của chuyển động không gia tốc, và hình thức đầu tiên của Định luật quán tính.

Năm 1687, Issac Newton xuất bản quyển "Nguyên lý Toán học", miêu tả chi tiết hai lý thuyết vật lý thành công và toàn diện: định luật Newton về chuyển động, cơ sở của cơ học cổ điển; và qui luật hấp dẫn của Newton, miêu tả lực hấp dẫn cơ bản. Cả 2 lý thuyết đều phù hợp với thí nghiệm. Cơ học cổ điển sau đó đã đuợc mở rộng một cách thấu đáo bởi Lagrange, Hamilton, và những nguời khác, giới thiệu những công thức, nguyên lý, kết quả mới. Định luật hấp dẫn đã khai sinh ra lĩnh vực lý thiên văn, mô tả các hiện tuợng thiên văn bằng các lý thuyết vật lý.

Chúng ta nên bổ sung vào đây 1 ít về những quan sát của Huyghens về vòng bao quanh sao Mộc, và cuộc chiến giữa ông với Newton về việc ánh sáng là sóng hay là hạt.

TK18

Từ TK18 trở đi, khái niệm nhiệt động lực học đã đuợc phát triển bởi Boyle, Young, và nhiều nguời khác, cùng lúc với sự phát triển của động cơ hơi nuớc, tiếp tục ở thế kỷ tiếp sau. Năm 1733, Daniel Bernoulli đã dùng những tranh cãi về mặt thống kê trong cơ cổ điển để tìm ra những nguyên lý nhiệt động lực học, khai sinh lĩnh vực cơ học thống kê. Benjamin Franklin huớng những nghiên cứu của ông vào bản chất của điện năm 1752. Năm 1798 Thompson đã chứng minh sự chuyển hoá công cơ học thành nhiệt, giúp Joule chứng minh định luật bảo toàn năng luợng trong TK sau.

DeMen
01-01-1970, 07:00 AM
TK19

Trong một bức thư gửi Royal Society năm 1800, Alessandro Volta đã miêu tả phát minh ắc quy điện của mình - lần đầu tiên đưa ra cách tạo ra dòng điện không đổi, và mở ra một lĩnh vực nghiên cứu mới cho vật lý học.

Năm 1847 Joule đã phát biểu định luật bảo toàn năng lượng, dưới dạng nhiệt lượng cũng như năng lượng cơ học. Tuy nhiên, nguyên lý bảo toàn năng lượng đã được đề nghị hoặc trình bày dưới nhiều hình thức khác nhau bởi nhiều nhà khoa học Đức, Pháp, Anh ... trong suốt nửa đầu TK19.

Tính chất của điện và từ được nghiên cứu bởi Faraday, Ohm, và những người khác. Faraday, người bắt đầu sự nghiệp trong hoá học - làm việc cho Humphrey Davy tại Viện nghiên cứu Hoàng gia, đã CM rằng các hiện tượng tĩnh điện, hoạt động của pin và ắc quy điện vừa được khám phá, các hiện tượng điện hoá, sét đều là những biểu hiện khác nhau của các hiện tượng điện. Faraday sau đó đã khám phá ra vào năm 1821 rằng điện có thể gây ra chuyển động quay cơ học, và năm 1831 khám phá nguyên tắc cảm ứng điện từ, bằng cách này chuyển động cơ học được chuyển hoá thành điện. Như vậy, Faraday đã đặt nền móng cho cả động cơ điện lẫn máy phát điện.

Năm 1855, Maxwell đã thống nhất hai hiện tượng này vào trong một lý thuyết : thuyết điện từ, miêu tả bởi phương trình Maxwell. Một dự đoán của lý thuyết này là ánh sáng là sóng điện từ. Một phần kì diệu hơn là tốc độ ánh sáng quan sát được không phụ thuộc vận tốc người quan sát, dự báo cho sự phát triển của thuyết tương đối đặc biệt của Einstein.

Năm 1887 thí nghiệm Michelson-Morley được tiến hành và được xem là đi ngược lại lý thuyết cơ bản lúc bấy giờ, rằng Trái đất đang chuyển động trong một môi trường ête (luminiferous aether). Sự phát triển của những điều mà sau đó trở thành Thuyết tương đối đặc biệt của Einstein, đã đưa ra lời giải thích hoàn chỉnh mà không cần đến ête, và phù hợp với các kết quả thực nghiệm. Michelson và Morely không thừa nhận sự không tồn tại của ête. Morely đi vào tiến hành thí nghiệm với Miller.

1887, Tesla nghiên cứu tia X bằng cách sử dụng các thiết bị của chính ông cũng như ống Crookes. Năm 1895, Rơn-ghen quan sát và phân tích tia X - phóng xạ điện từ tần số cao. Phóng xạ được Henri Becquerel khám phá năm 1896, và sau đó được Piere Curie và Marie Curie cùng những người khác nghiên cứu sâu hơn. Điều này đã khai sinh ra lĩnh vực vật lý hạt nhân.

Năm 1897, Thomson nghiên cứu electron, hạt cơ bản mang dòng điện trong mạch điện. Ông kết luận rằng tia catốt tồn tại và là những "hạt" tích điện âm, mà ông gọi là "corpuscle".

TK20

Sự bắt đầu của TK20 mang lại khởi đầu cho một cuộc CM trong vật lý. Những lý thuyết của Newton trải qua một thời gian dài tồn tại đã được chỉ ra rằng không phải trong hoàn cảnh nào cũng đúng. Không chỉ cơ học lượng tử cho thấy các định luật về chuyển động không còn đúng trong quy mô nhỏ, mà rắc rối hơn, thuyết tương đối tổng quát chỉ ra rằng phông không thời gian cố định, mà cơ học Newton và thuyết tương đối đặc biệt dựa vaò, là không thể tồn taị.

Năm 1904, Thomson đề nghị mô hình nguyên tử đầu tiên, được biết đến như là mô hình chiếc bánh pudding có chóp nhọn. (sự tồn tại của nguyên tử đã được Dalton đề nghị vào năm 1808).

Năm 1905, Einstein đưa ra công thức cho thuyết tương đối đặc biệt, thống nhất không gian và thời gian vào một thực thể duy nhất, không thời gian. Thuyết tương đối quy định sự biến đổi giữa các hệ quy chiếu khác với cơ học cổ điển, đòi hỏi sự phát triển của cơ học tương đối để thay thế cho cơ cổ điển. Trong giới hạn vận tốc (tương đối) nhỏ thì 2 lý thuyết này phù hợp nhau. Năm 1915, Einstein mở rộng thuyết tương đối đặc biệt thành thuyết tương đối tổng quát, thay thế cho định luật hấp dẫn của Newton. Khi khối lượng và năng lượng nhỏ thì 2 lý thuyết này vẫn phù hợp nhau.

Năm 1911, Rutherford từ thí nghiệm tán xạ đưa ra kết luận về hạt nhân nguyên tử đặc, với các hạt mang điện dương là proton. Neutrons, phần tử trung hoà trong hạt nhân, được Chadwick tìm ra năm 1932.

Bắt đầu từ năm 1900, Planck, Einstein, Bohr, và những người khác đã phát triển lý thuyết lượng tử để giải thích những kết quả thí nghiệm bất thường khác nhau bằng việc giới thiệu các mức năng lượng riêng lẻ. Năm 1925, Heisenberg và Schrodinger đưa ra công thức cơ học lượng tử, giải thích những lý thuyết lượng tử trước đó. Trong cơ lượng tử, kết quả của các thí nghiệm vật lý vốn luôn mang tính xác suất. Lý thuyết này mô tả cách tính các xác suất naỳ. Nó đã miêu tả thành công tính chất vật chất trong qui mô nhỏ.

Cơ lượng tử cũng cung cấp các công cụ lý thuyết cho vật lý chất rắn, nghiên cứu tính chất vật lý của chất rắn và chất lỏng, kể cả các hiện tượng như cấu trúc tinh thể, bán dẫn, siêu dẫn. Tiên phong trong vật lý chất rắn phải kể đến Bloch, người đã sáng tạo ra sự miêu tả mang tính cơ lượng tử cho hoạt động của các electron trong cấu trúc tinh thể vào năm 1928.

Năm 1929, Edwin Hubble công bố khám phá rằng tốc độ các ngân hà lùi về phía sau có tương quan rõ ràng với khoảng cách giữa chúng. Đây là điều cơ bản để hiểu rằng vũ trụ đang nở rộng. Như vậy, chắc hẳn vũ trụ đã từng nhỏ hơn và do đó nóng hơn trong quá khứ. Đến trước thập niên 40 của TK naỳ, những nhà nghiên cứu như George Gamov đã đề nghị thuyết Big Bang (vụ nổ lớn), và bằng chứng về nó đã được tìm ra vào năm 1964; Enrico Fermi và Fred Hoyle, là một trong số những người nghi ngờ vào thập niên 40 và 50. Hoyle đã tìm hiểu thuyết Big Bang của Gamow để vạch trần nó. Ngày nay, đó là một trong những kết quả cơ bản của vũ trụ học, với một vũ trụ có tuổi được thừa nhận rộng raĩ.

Năm 1937, Tesla thách thức thuyết tương đối của Einstein, thông báo về lý thuyết hấp dẫn động lực và tranh cãi rằng trường lực là một khái niệm tốt hơn và huỷ bỏ độ cong của không gian. Không may mắn là lý thuyết đó đã không bao giờ được xuất bản, nhưng Tesla có thể đã phát triển lý thuyết về sóng hấp dẫn. Một kết quả chính của Thuyết hấp dẫn tổng quát là lực hấp dẫn bị mất khi vào lỗ đen, đã được dự kiến từ 2 thế kỉ trước, nhưng được giải thích bởi robert Oppenheimer. Oppenheimer sau đó đã lãnh đạo dự án Manhattan ở Los Alamos.

Trong thế chiến II, mỗi bên đều hướng các nghiên cứu vào vật lý hạt nhân, cho mục đích chế tạo bom hạt nhân. Cố gắng của người Đức, dẫn đầu là Heisenberg, đã không thành công, nhưng dự án liên minh Manhattan đã đạt được thành tích. Ở Mĩ, một nhóm do Fermi lãnh đạo đã đạt được phản ứng hạt nhân dây chuyền nhân tạo đầu tiên vào năm 1942, và năm 1945 quả bom hạt nhân đầu tiên đã được cho nổ tại Trinity Site, bắc Alamogordo, New Mexico.

Lý thuyết trường lượng tử đã cung cấp bộ khung cho vật lý hạt hiện đại, nghiên cứu các lực cơ bản và các hạt cơ bản. Năm 1954, Yang và Mills đã phát triển trường phái lý thuyết tiêu chuẩn, cung cấp bộ khung cho Mô hình Tiêu chuẩn. Mô hình Tiêu chuẩn, hoàn thành vào những năm 1970, đã miêu tả thành công hầu hết các hạt cơ bản quan sát được cho đến lúc đó.

Cùng thời gian này, Stephen Hawking đã khám phá ra phổ phóng xạ phát ra từ sự biến mất của vật chất rơi vào lỗ đen; đến 2004, ngay cả Hawking cũng thừa nhận một số tia phóng xạ hawking có thể thoát khỏi lỗ đen.

Sự phát triển từ 1990

Những cố gắng hợp nhất cơ lượng tử và thuyết tương đối tổng quát đã tạo nên những tiến trình kì diệu trong suốt những năm 1990. Vào cuối thế kỉ, một Lý thuyết cho tất cả mọi thứ vẫn chưa nằm trong tầm tay, nhưng một vài điều mang tính chất đó đã bắt đầu định hình. Loop quantum gravity, lý thuyết chuỗi, nhiệt lực học lỗ đen, tất cả đã tiên đoán về một không thời gian được lượng tử hoá trong mô hình Planck.

Từ năm 2000:

Một thí nghiệm mới đã CM rằng lực hấp dẫn truyền đi với vận tốc xấp xỉ vận tốc ánh sáng, khẳng định lại một dự đoán của cả thuyết tương đối tổng quát và loop quantum gravity.

Xong!

DeMen
01-01-1970, 07:00 AM
Dài quá, chẳng biết có ai thèm đọc không nữa????? :rolleyes:

Nhân đây cho em hỏi: loop quantum gravity dịch là gì? Em hỏi mãi mà vẫn chưa ai chịu trả lời....

myhanh
01-01-1970, 07:00 AM
LQG:Loop quantum gravity-> Thuyết hấp dẫn lượng tử dải
Đây là cách dịch mà myhanh đọc được trên báo VNExpress ra ngày thứ sáu 26/10/2001 trong bài "Lý thuyết hấp dẫn lượng tử dải sẽ hợp nhất các định luật vũ trụ?" của nhà báo Minh Hy