PDA

View Full Version : Long An quê hương tôi


LeGiang
01-01-1970, 07:00 AM
trang thông tin tỉnh Long An (http://www.longan.gov.vn/)

14./ Huyện Vĩnh Hưng</span>
Huyện Vĩnh Hưng nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Long An với diện tích tự nhiên 38.452 ha, chia thành 10 đơn vị hành chính (9 xã và 1 thị trấn). Ranh giới hành chính huyện Vĩnh Hưng tiếp giáp với 2 huyện của tỉnh Long An và Campuchia, cụ thể như sau: phía Bắc và Đông Bắc giáp Campuchia, phía Đông Nam giáp huyện Mộc Hóa - tỉnh Long An, phía Tây và Tây Nam giáp huyện Tân Hưng - tỉnh Long An.
Vĩnh Hưng nằm ở vùng sâu của Đồng Tháp Mười, hàng năm chịu ảnh hưởng nặng nề của lũ lụt. Sự hình thành và phát triển kinh tế - xã hội của Vĩnh Hưng gắn liền với quá trình khai thác đất hoang hóa, di dân xây dựng vùng kinh tế mới ở Đồng Tháp Mười. Nằm ở vùng chuyển tiếp giữa bậc thềm phù sa cổ (Pleitocene) với vùng thượng châu thổ ĐBSCL, với hai kiểu cảnh quan chính là bồn trũng phèn giàu nước mưa (trầm tích giàu Sulphur) và lòng các con sông cổ. Đặc trưng rõ nét nhất ở Vĩnh Hưng là khối đất xám dọc biên giới Campuchia và các sông cổ đã được bồi lắng, tạo nên đồng bằng trũng và các “lung” phèn. Trong phân vùng địa lý kinh tế của tỉnh Long An, Vĩnh Hưng thuộc tiểu vùng 3 (gồm Vĩnh Hưng, Tân Hưng , Mộc Hóa, Tân Thạnh). Phương hướng phát triển kinh tế chủ yếu là Nông, Lâm nghiệp, mà hàng đầu là sản xuất lúa hàng hóa.
Huyện Vĩnh Hưng có 10 xã- thị trấn, trong đó thị trấn Vĩnh Hưng là huyện lỵ, các xã còn lại gồm: Vĩnh Trị, Hưng Điền A, Thái Trị, Thái Bình Trung, Tuyên Bình, Tuyên Bình Tây, Vĩnh Bình, Khánh Hưng, Vĩnh Thuận.

LeGiang
01-01-1970, 07:00 AM
THỊ XÃ TÂN AN</span>

Địa chỉ : 176 Hùng Vương, phường 2, thị xã Tân An tỉnh Long An
Thị xã có 6 phường và 6 xã với tổng diện tích tự nhiên là 8.192,64 ha, dân số theo số liệu điều tra 1/4/1999 là 113.850 người. Trong đó phường I là trung tâm kinh tế, chính trị văn hóa của Thị xã, các phường - xã còn lại: phường 2, phường 3, phường 4, phường 5, phường 6 và xã Lợi Bình Nhơn, xã Hướng Thọ Phú, xã Nhơn Thạnh Trung, xã Bình Tâm, xã Khánh Hậu, xã An Vĩnh Ngãi.

1- Vị trí địa lý
Thị xã Tân An nằm về phía Tây Nam Thành phố Hồ Chí Minh, cách trung tâm thành phố 47 km và có ranh giới với các đơn vị hành chính như sau: Phía Bắc giáp huyện Thủ Thừa; Phía Đông giáp huyện Tân Trụ và huyện Châu Thành; Phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Tiền Giang.
Thị xã có 6 phường và 6 xã với tổng diện tích tự nhiên là 8.192,64 ha, dân số theo số liệu điều tra 1/4/1999 là 113.850 người. Trong đó phường I là trung tâm kinh tế, chính trị văn hóa của Thị xã.
Thị xã Tân An là trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế, khoa học kỹ thuật của tỉnh Long An. Thị xã vừa nằm trên tia phát triển của Địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam, vừa là cửa ngỏ kinh tế của các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long, có trục giao thông chính thủy bộ chạy qua trung tâm là Quốc lộ I A, Quốc lộ 62 và sông Vàm cỏ Tây.
Với vị trí địa lý như trên tạo cho thị xã Tân An có lợi thế so sánh tương đối về địa lý kinh tế, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Long An nói chung và Thị xã Tân An nói riêng.

2. Đặc điểm tự nhiên
Thời tiết - Khí hậu: Thị xã Tân An nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, cận xích đạo, nền nhiệt độ cao và ổn định. Khí hậu chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4. Nhiệt độ trung bình năm là 27,9 oC. Độ ẩm tương đối ổn định trong năm với mức bình quân là 79,2%. Lượng mưa trung bình là 1.532mm, tập trung từ tháng 5 đến tháng 11 chiếm khoảng 91,7% tổng lượng mưa cả năm.
Chế độ thủy văn: Hệ thống sông ngòi, kênh rạch trên địa bàn thị xã khá chằng chịt mang sắc thái của vùng Đồng bằng Sông Cửu Long và chịu ảnh hưởng chế độ bán nhật triều của biển Đông. Biên độ triều cực đại trong tháng từ 217- 235 cm, đỉnh triều cực đại tháng 12 là 150 cm. Một chu kỳ triều khoảng 13-14 ngày. Do gần cửa biển, biên độ triều lớn, đỉnh triều vào đầu mùa gió chướng nên sông rạch thường bị xâm nhập mặn.
- Về mùa lũ sông Vàm Cỏ Tây vừa chịu ảnh hưởng của thủy triều, vừa chịu ảnh hưởng của lũ ở vùng Đồng Tháp Mười tràn về. Mùa khô từ tháng 2 đến tháng 6 nước sông Vàm Cỏ Tây bị nhiễm mặn. Tháng 5 có độ mặn cao nhất 5,489g/lít, tháng 1 có độ mặn 0,079g/l. Độ pH trong nước sông Vàm Cỏ Tây từ tháng 6 đến tháng 8 khoảng 3,8 - 4,3 nên không thể sử dụng cho sản xuất và sinh hoạt.
Địa hình - Địa chất: Địa hình Thị xã Tân An mang đặc điểm chung vùng đồng bằng Sông Cửu Long. Nơi đây địa hình được bồi đắp liên tục và đều đặn dẫn đến sự hình thành đồng bằng có bề mặt bằng phẳng và nằm ngang. Độ cao tuyệt đối biến đổi từ 0,5- 2 m (hệ Mũi Nai) và trung bình là 1-1,6 m. Đặc biệt lộ ra một vùng cát từ Tiền Giang qua Tân Hiệp lên đến Xuân Sanh (Lợi Bình Nhơn) với độ cao thường biến đổi từ 1-3 m.
Hầu hết phần diện tích đất ở hiện hữu không bị ngập úng, rải rác có những điểm trũng dọc theo hai bên bờ sông rạch bị ngập nước về mùa mưa. Nhìn chung địa hình Thị xã tương đối thấp, dễ bị tác động khi triều cường hoặc khi lũ Đồng Tháp Mười tràn về.
Tài nguyên:
Tài nguyên nước mặt ở Long An khá phong phú, Sông Vàm Cỏ Tây đoạn chảy qua Tân An có chiều dài 15,8 km, độ sâu trung bình 15 m, nguồn nước chủ yếu do sông Tiền tiếp sang qua kênh Hồng Ngự và kênh Cái Cỏ. Kênh Bảo Định từ sông Vàm Cỏ Tây nối sông Tiền tại TP. Mỹ Tho. Ngoài ra còn có Rạch Chanh, Rạch Châu Phê, Rạch Bình Tâm, Rạch Cần Đốt. Nhìn chung nguồn nước mặt không thuận lợi cho sản xuất và sinh hoạt do bị nhiễm mặn, phèn và ô nhiễm chất thải. Nước mưa 1.200-1.600 mm/năm là nguồn bổ sung quan trọng cho nguồn nước mặt.
Chất lượng nước ngầm ở Tân An được đánh giá là khá tốt, đủ tiêu chuẩn sử dụng cho nhu cầu sinh hoạt. Kết quả phân tích một số mẫu nước ngầm ở thị xã cho thấy độ H=5,3-7,8; C=8-200mg/l; lượng sắt tổng số Fe= 1.28- 41.8mg/l. Theo số liệu khảo sát và tính toán của liên đoàn 8 điạ chất thủy văn, trữ lượng nước ngầm của thị xã Tân An là trên 133.000 m3/ngày đêm. Riêng xã Khánh Hậu, thị xã Tân An có mỏ nước khoáng ở độ sâu 400m đang được khai thác.
Tài nguyên đất: đất ở thị xã Tân An biến đổi mạnh theo địa hình. Khoảng 86,13% diện tích đất thuộc nhóm đất phù sa ngọt đang phát triển mạnh, còn lại là diện tích đất phèn. Có thể chia thành 5 loại đất chính như sau:
+ Đất phù sa đang phát triển tầng mặt giàu hữu cơ là 284,43 ha chiếm 3,47% so với tổng diện tích tự nhiên, phân bố rải rác trên địa hình trung bình đến hơi cao ở xã Khánh Hậu và xã An Vĩnh Ngãi. Loại đất này thích nghi nhiều loại cây trồng nên có tiềm năng đa dạng hóa rất cao.
+ Đất phù sa phát triển sâu, điển hình, bão hòa nước ngầm là 4.507,72 ha, chiếm 55,02% diện tích tự nhiên. Đất phát triển từ vật liệu phù sa mới, trầm tích nước ngọt có địa hình cao và phân bố thành các vùng lớn ở khắp địa bàn thị xã. Loại đất này thích nghi nhiều loại cây trồng và có tiềm năng đa dạng hóa cây trồng rất cao.
+ Đất phù sa phát triển sâu, bảo hòa nước ngầm là 1.994,09 ha chiếm 24,34% tổng diện tích tự nhiên. Mẫu chất là trầm tích phù sa mới, được hình thành và phát triển trong môi trường nước ngọt, phân bố trên địa hình cao, rãi rác trong địa bàn thị xã.
+ Đất phèn tiềm tàng là 267,43 ha, chiếm 3,26% tổng diện tích tự nhiên. Phân bố trên địa hình trung bình ở ấp Ngãi Lợi B xã Lợi Bình Nhơn, Hướng Thọ Phú và dọc sông Vàm Cỏ Tây.
+ Đất phèn hoạt động là 152,19 ha chiếm 1,86% tổng diện tích tự nhiên, phân bố ở trung tâm xã Hướng Thọ Phú, đất có địa hình trung bình thấp so với chung quanh.
Là một địa bàn hình thành khá lâu nên phần lớn diện tích đất tự nhiên của Thị xã Tân An được sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế xã hội. Tuy là tỉnh lỵ của tỉnh Long An nhưng phần lớn diện tích đất tự nhiên được bố trí cho mục đích nông nghiệp (khoảng 72%). Diện tích đất chuyên dùng chiếm chưa đến 11%. Tổng diện tích đất sử dụng cho đô thị chiếm khoảng 27% tổng diện tích tự nhiên. Mức độ phát triển đô thị trên địa bàn thị xã tương đối thấp, chưa đạt yêu cầu là trung tâm tỉnh lỵ.
Tài nguyên nhân văn: Hình thành từ cuối thập niên thứ 17 từ nhiều nguồn nên cộng đồng dân cư thị xã Tân An có kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm sản xuất và vốn văn hóa dân gian cũng đa dạng phong phú. Tuy quy mô không lớn nhưng thị xã Tân An cũng khá nổi tiếng ở miền Nam với những nét độc đáo về cảnh sắc, về phong cách sinh hoạt, và là nơi hội tụ văn hóa văn nghệ mang đậm nét bản sắc dân tộc. Đây cũng là nơi có khá nhiều di tích lịch sử văn hóa như lăng Nguyễn Huỳnh Đức và gần 100 ngôi đình chùa, miếu, thánh thất...
Dân số và nguồn nhân lực: Dân số Thị xã là 113.850 người (1/4/1999) bằng 8,72% dân số toàn tỉnh, trong đó, dân nội thị là 71.686 người chiếm 63% và dân nông thôn là 42.164 người chiếm 37% dân số toàn thị xã. Tốc độ tăng dân số bình quân giai đoạn 1989 -1999 là 1,27%, thấp hơn so với mức bình quân của tỉnh (1,55%). Mật độ dân số trung bình của Thị xã là 1.390 người/km2 cao gấp 4,85 lần so với mật độ toàn tỉnh (300 người/km2).
Lao động trong độ tuổi năm 1999 là 71.927 người chiếm tỷ lệ 63% dân số, trong đó lao động trong khu vực I chiếm 28%, lao động trong khu vực II chiếm 13,6% và lao động trong khu vực III chiếm 42% trong tổng số lao động, cho thấy mức độ tham gia sản xuất của khu vực mại - dịch vụ khá cao. Lao động gia tăng bình quân hàng năm khoảng 2.800 người/năm, trong đó lao động thất nghiệp giảm dần từ năm 1991 là 11.034 người (18%) đến năm 1999 còn khoảng 4.479 người (7%).

3. Nhận xét về điều kiện tự nhiên
Lợi thế so sánh
- Tiếp cận với thành phố Hồ Chí Minh - Thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa lớn, là trung tâm tài chính lớn của cả nước, nơi chuyển giao khoa học, công nghệ, kinh nghiệm quản lý đô thị... nên thị xã có nhiều lợi thế so sánh tỉnh, mở ra khả năng phát triển nhanh trong tương lai.
- Với 86% diện tích tự nhiên là đất phù sa ngọt và các điều kiện về thời tiết, khí hậu thuận lợi tạo điều kiện đa dạng hóa cây trồng. Thổ nhưỡng, tính chất cơ lý của đất không quá bất lợi cho xây dựng và phát triển đô thị.
- Hệ thống giao thông thuận lợi cho việc mua nguyên liệu từ Đồng bằng Sông Cửu Long phục vụ công nghiệp chế biến và xuất khẩu.
Hạn chế
- Địa hình tương đối thấp dễ bị tác động của triều cường và lũ Đồng Tháp Mười tràn về. Mùa nắng thiếu nước cho sinh hoạt và sản xuất.
- Chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ của Thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương trong tỉnh trong việc thu hút đầu tư, thu hút nguồn nhân lực.

4. Đánh giá chung
Lợi thế:
- Tiếp cận với TP. Hồ Chí Minh - một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước, tạo điều kiện cho Thị xã Tân An tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật và liên kết về nhiều mặt kinh tế, văn hóa, xã hội.
- Thị xã Tân An là cửa ngõ của TP. Hồ Chí Minh với các tỉnh Miền Tây, tác động trực tiếp lên các ngành dịch vụ của thị xã. TP Hồ Chí Minh là nơi có nhu cầu tiêu thụ hàng hóa rất lớn nên tác động mạnh mẽ đến sản xuất và cung ứng hàng hóa nông sản, phát triển mạnh gia công và chế biến các mặt hàng công nghiệp tại thị xã Tân An.
- Hoạt động kinh tế của thị xã trong các năm qua đã có bước phát triển khá, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Các mặt giáo dục, y tế văn hóa xã hội được quan tâm hơn, tệ nạn xã hội được ngăn chặn và đẩy lùi từng bước. Đời sống dân cư được cải thiện rỏ nét theo xu thế chung của Tỉnh.
- Là địa bàn có sự phát triển thương mại- dịch vụ, công nghiệp với các tuyến giao thông của huyện đã nối kết các tuyến giao thông trong tỉnh, trên địa bàn có đường Quốc lộ 1A đi qua.
- Là động lực thúc đẩy công nghiệp của Long An phát triển với hàng loạt các cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn.
- Mạng lưới giao thông đã vươn tới các xã, phường. Thị xã Tân An là hai trong số 14 huyện của tỉnh có đường ô tô đến trung tâm xã, tuy nhiên chất lượng đường còn xấu chưa được cải tạo. Mạng lưới điện đã kéo tới xã, là 3 trong số 14 huyện có mạng lưới điện đến 100% xã trong huyện, số xã có điện đạt 100 %, số hộ dùng điện đạt 80%.
- Nhân dân Thị xã Tân An có mức sống cao hơn một số huyện trong tỉnh, mức thu nhập bình quân năm 2000 đạt 7,5 triệu đồng/người/năm (bình quân của tỉnh là 5 triệu đồng).
Hạn chế:
- Việc phát triển đô thị chưa được quan tâm đầy đủ nên Thị xã chưa thể hiện là trung tâm chính trị, kinh tế văn hoá khoa học kỹ thuật của Tỉnh, chưa phát huy được lợi thế vị trí địa lý, chưa tạo được động lực mạnh mẽ cho việc thu hút vốn đầu tư, công nghệ, lao động.. cho quá trình phát triển. Cơ sở hạ tầng chậm được cải thiện và tiếp tục xuống cấp, kiến trúc đô thị còn thấp và quản lý manh múm, thiếu chặt chẻ, trật tự công cộng và vệ sinh môi trường chưa đảm bảo.
- Thị xã Tân An là khu trung tâm của Tỉnh Long An nhưng hệ thống hạ tầng cơ sở còn bộc lộ nhiều yếu kém, không tương xứng với yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Hạn chế lớn nhất là vào mùa mưa thường bị ảnh hưởng của cường triều, trái lại mùa khô rất thiếu nước cho sinh hoạt và sản xuất vì sự cạn kiệt của nước sông.
- Việc bố trí dân cư trong thời gian qua, phần lớn mang tính tự phát, nên bộ mặt Thị xã còn thiếu nét văn minh đô thị. Ngoài vài trục đường chính khang trang, phần lớn dân cư đời sống còn nghèo nàn với mái nhà tạm bợ.

5. Quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu:
Quan điểm: Phát triển Thị xã Tân An không chỉ giản đơn là xây dựng một đô thị lớn mà chính là xây dựng một trung tâm tỉnh lỵ, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học của tỉnh, đủ sức chi phối và liên kết các mặt với các huyện trong tỉnh, tạo thế và lực cho quá trình hợp tác, liên kết, trao đổi giữa các địa phương bạn trong phạm vi cả nước và quốc tế.
- Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa phù hợp với hệ sinh thái trong vùng. Kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế với mục tiêu an sinh và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo phát triển ổn định và bền vững.
- Phát triển kinh tế nhiều thành phần, tạo môi trường thông thoáng để tận dụng mọi nguồn lực trong cộng đồng dân cư. Xây dựng nền kinh tế mở, phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Kết hợp chặt chẽ giữa cải tạo và xây dựng mới, kiến trúc đô thị phải hiện đại, phù hợp truyền thống văn hóa phương Đông, truyền thống văn hóa dân tộc và cảnh quan thiên nhiên.
- Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội Thị xã Tân An phải dựa trên phương hướng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội Tỉnh Long An.
- Phát huy và nâng cao ý thức trách nhiệm và tinh thần tự lực, tự cường, không ngừng phấn đấu vươn lên của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thị xã. Đồng thời gắn kết chặt chẻ, hữu cơ với các ngành tỉnh.
Thời cơ:
- Với chủ trương thông thoáng của Nhà nước, đầu tư trong nước và nước ngoài sẽ gia tăng mạnh trong thời gian tới, nếu tạo được môi trường hấp dẫn sẽ mở ra cơ hội thu hút nguồn lực, tạo ra những đột phá trong tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Sự quan tâm của Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh trong việc chỉnh trang và xây dựng đô thị sẽ tạo những điều kiện thuận lợi cho chu trình phát triển mới.
Thách thức:
- Hạ tầng cơ sở phát triển kém, giao thông chưa đáp ứng được nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Một số mặt về vệ sinh và môi trường còn là thách thức lớn.
- Trình độ và năng lực cán bộ còn nhiều hạn chế, trình độ quản lý Nhà nước chưa ngang tầm với nhiệm vụ.

6. Mục tiêu tổng quát:
- Nâng cấp, mở rộng và phát triển thị xã Tân An từ đô thị loại 4 thành đô thị loại 3 để thực sự là đô thị văn minh, hiện đại, xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học của tỉnh Long An. Liên kết chặt chẽ với các huyện trong tỉnh, với Thành phố Hồ Chí Minh và đồng bằng Sông Cửu Long.
- Đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững. Chăm lo đời sống vật chất và văn hóa của dân cư, giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc của xã hội.
- Kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng, giữ vững an ninh, chính trị trong các giai đoạn phát triển.

7. Mục tiêu cụ thể:<span style=\'color:purple\'>
- Nhịp độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm theo GDP trên địa bàn giai đoạn 2001-2010 là 11,4%, trong đó giai đoạn 2001-2005 là 10,7% và giai đoạn 2006-2010 là 12%.
- Giá trị tăng thêm bình quân đầu người từ 10 triệu đồng/người năm 2000 (tương đương 700 USD), tăng lên 17,7 triệu năm 2005 (tương ứng 1.050 USD) và đạt 32,7 triệu đồng năm 2010 (tương đương 1.600 USD).
- Giá trị sản xuất (GTSX) công nghiệp theo giá 1994 tăng bình quân 13%/năm giai đoạn 2001-2005 và 13,5%/năm giai đoạn 2006-2010. Bình quân cả 2 giai đoạn là 13,2%/năm.
GTSX thương mại, dịch vụ tăng bình quân 11,4%/năm giai đoạn 2001-2005 và 12,6%/năm giai đoạn 2006-2010. Bình quân cả 2 giai đoạn là 12%/năm.
GTSX nông nghiệp tăng bình quân tăng bình quân 1%/năm giai đoạn 2001-2005 và giai đoạn 2006-2010 là 0,5%/năm. Bình quân cả 2 giai đoạn là 0,8%/năm.
- Giảm tỷ lệ sinh từ 1,6% năm 2000 xuống còn 1,2% năm 2005 và 1% năm 2010. Tốc độ tăng dân số trung bình hàng năm giai đoạn 2001-2005 là 2,4% và 2,2 giai đoạn 2006-2010.
- Giảm tình trạng trẻ em suy dinh dưỡng xuống còn 20% vào năm 2005 và 15% vào năm 2010.
- Tăng tỷ lệ lao động có tay nghề đạt 30% năm 2005 và 50% năm 2010, cán bộ có trình độ đại học chiếm tỷ lệ 15-20% vào năm 2010.
- Đẩy mạnh phát triển ngành nghề đa dạng để giải quyết đủ việc làm cho người lao động, tăng thu nhập, nâng cao đời sống nhân dân. Phấn đấu đến năm 2005 giảm tỷ lệ nghèo xuống còn khoảng 7% và năm 2010 còn 5% (theo tiêu chí mới).
- Đảm bảo cho dân sử dụng nước sạch trên 95% vào năm 2005 và 100% vào năm 2010.
- 100% hộ có điện thấp sáng và điện khí hóa vào năm 2005.
- Đảm bảo sự an toàn xã hội và quốc phòng trong chiến lược đảm bảo an ninh quốc phòng chung và của cả nước

LeGiang
01-01-1970, 07:00 AM
HUYỆN BẾN LỨC</span>

Địa chỉ: Ấp Chợ thị trấn Bến Lức huyện Bến Lức.
Điện thoại: 871201, Fax: 872223

Toàn huyện Bến Lức được chia thành 16 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó thị trấn Bến Lức là trung tâm kinh tế, chính trị và văn hoá của huyện. Các đơn vị còn lại là: xã Thạnh Lợi, xã Thạnh Hoà, xã Lương Bình, xã Lương Hoà, xã Tân Hoà, xã Bình Đức, xã An Thạnh, xã Tân Bửu, xã Thanh Phú, xã Thạnh Đức, xã Nhựt Chánh, thị trấn Bến Lức, xã Long Hiệp, xã Mỹ Yên, xã Phước Lợi.

1. Vị trí địa lý:
Bến Lức nằm phía Đông của tỉnh Long An là một địa bàn chiến lược về kinh tế và quân sự của thành phố Hồ Chí Minh, là cửa ngõ phía Bắc của miền Tây Nam Bộ. Huyện Bến Lức có diện tích 285,97 Km2, dân số (năm 1997) 123.845 người, chiếm 6,59% về diện tích và 9,55% về dân số so toàn tỉnh, mật độ dân số là 433 người/km2, lớn gấp 1,93 lần so với mật độ toàn tỉnh. Phía Bắc giáp huyện Đức Hoà, huyện Đức Huệ; phía Đông giáp huyện Bình Chánh, TP. HCM; phía Nam giáp huyện Cần Giuộc, huyện Cần Đước, huyện Tân Trụ; phía Tây giáp Thủ Thừa.
Quốc lộ 1 A là trục giao thông chính của Quốc gia nối liền địa bàn vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với đồng bằng sông Cửu Long đi qua huyện Bến Lức, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế, giao lưu văn hoá, tiếp cận nhanh chóng những thông tin mới nhất trong nước, hoà nhập với kinh tế thị trường, phát triển nhiều loại hình dịch vụ, hình thành các điểm trung chuyển hàng hoá giữa miền Tây lên TP. HCM và ngược lại.

2. Khí hậu:
Huyện Bến Lức có khí hậu nhiệt đời gió mùa với nền nhiệt độ cao đều quanh năm. Lượng mưa khá lớn và phân bổ theo mùa. Lượng mưa trung bình hàng năm của huyện là 1.625 mm nhưng phân bổ không đều theo năm. Mưa tập trung từ tháng 5 tới tháng 10 chiếm 85% tổng lượng mưa trong năm. Những tháng còn lại là mùa khô, mưa ít, lượng mưa chiến 15% tổng lượng mưa cả năm. Chế độ mưa tác động mạnh mẽ đến sản xuất nông nghiệp của huyện. Phần lớn huyện Bến Lức sản xuất hai vụ lúa/năm; vụ hè thu sử dụng giống ngắn ngày năng suất cao, vụ đông xuân sản xuất lúa đặc sản.
Tổng số giờ nắng trung bình năm khoảng 2.630 giờ, trung bình ngày 7,2 giờ nắng. Tháng có số giờ nắng cao nhất là tháng 2, tháng 3, khoảng 267 giờ, tháng 8 có số giờ nắng ít nhất khoảng 189 giờ. Nhiệt độ trung bình hàng năm 270C. Độ ẩm không khí trung bình hàng năm 82,79%.
Thuỷ văn: Sông Vàm Cỏ Đông bắt nguồn từ Campuchia chảy ra biển Đông qua địa phận Bến Lức với chiều dài 21 km, với chiều rộng trung bình 200- 235 m, sâu 11- 12 m. Vào mùa cạn lượng nước trên sông không đáng kể, lưu lượng trung bình chỉ có 11 m3/s, hạ lưu chịu ảnh hưởng mạnh của thuỷ triều.
Sông Bến Lức nối sông Vàm Cỏ Đông với sông Sài Gòn qua kinh Đôi, rộng 20 - 25 m, sâu 2- 5 m, chịu ảnh hưởng chế độ thuỷ văn sông Vàm Cỏ Đông. hai con sông trên có giá trị rất lớn về giao thông đối với huyện Bến Lức. Từ Vàm Cỏ Đông tàu thuyền có thể đi ra biển Đông một cách thuận tiện.
Kênh Thủ Đoàn nối liền sông Vàm Cỏ Đông với sông Vàm Cỏ Tây cùng với mạnh lưới kênh rạch khá dày đặc tạo thành hệ thống thuỷ lợi và giao thông quan trọng trong sản xuất và lưu thông hàng hoá.

3. Tài nguyên thiên nhiên và thổ nhưỡng:
Tài nguyên đất: Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện là 28.579 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 76,8%, đất ở (bao gồm đất đô thị và dân cư nông thôn) chiếm 2,4%, đất chuyên dùng 5,56%, đất chưa sử dụng 14,9%. Trên địa bàn huyện Bến Lức có 14 loại đất, chủ yếu là các loại đất phèn, đất phù sa...
Đất phèn: Với diện tích 15.166,3 ha chiếm 53,4% diện tích toàn huyện, chủ yếu tại các xã Thạnh Hoà, Thạnh Lợi, Tân Hoà, Lương Bình, Bình Đức... Nồng độ độc tố rất cao Cl-, SO-2, Al+3, Fe+3. Muốn sử dụng tốt loại đất này hệ thống kênh mương cần phải hoàn chỉnh và riêng biệt.
Đất phù sa: Với diện tích 9.867,6 ha chiếm tỷ lệ 34,47% diện tích toàn huyện, chủ yếu tại các xã Mỹ Yên, Phước Lợi, Long Hiệp, Thạnh Phú, Nhựt Chánh. Đất phù sa là loại đất tốt cho năng suất luá cao, đặc sản và nhiều vụ trong năm.
Đất xám: Chiếm tỷ lệ nhỏ cỡ 2,43%, phân bố ở địa hình cao, thích hợp với cây màu và các cây công nghiệp ngắn ngày.
Nhìn chung, tài nguyên đất của huyện Bến Lức có nhiều điều kiện cho phát triển công nghiệp, nguồn đất chưa sử dụng còn nhiều, địa hình tương đối bằng phẳng, thuận tiện cho san lấp mặt bằng và xây dựng cơ sở hạ tầng.
Tài nguyên nước: Bến Lức có 2 nguồn nước chính. Nước mặt có được nhờ vào các sông rạch và nước mưa. Lượng mưa hàng năm lớn nhưng lại trùng vào mùa lũ của sông MeKông nên thường xảy ra tình trạng ngập úng. Ngược lại vào mùa khô lượng mưa thấp và nhiễm mặn nên canh tác nông nghiệp gặp nhiều khó khăn. Nguồn nước ngầm được phân bổ ở độ sâu 230- 270 m với hàm lượng sắt cao 4 - 15 mg/lít.
Tài nguyên rừng: Diện tích rừng hiện nay của huyện Bến Lức khoảng 12 ha, phân bố tại các xã Thạnh Hoà, Lương Bình, Lương Hoà, chủ yếu là tràm và bạch đàn để lấy gỗ.

4. Dân số và lao động.<span style=\'color:purple\'>
Dân số tính đến tháng 12 năm 1997 huyện Bến Lức có 123.845 người. Mật độ dân cư phân bố không đồng đều, chủ yếu dân cư tập trung vào các xã vùng phía Nam (khu vực giáp đường quốc lộ 1 A) với mật độ 880 người/km2. Các vùng phía Bắc với diện tích 67,4% nhưng dân số chỉ chiếm có 33,7% và mật độ chỉ có 217 người/km2. Mật độ dân cư đông nhất tại thị trấn Bến Lức với mật độ 1971 người/km2 và xã Phước Lợi với mật độ 1.300 người/km2.
Lao động: Đến năm 1997, dân số trong độ tuổi lao động có việc làm 61.303 người, chiếm khoảng 49,5% dân số toàn huyện, trong đó lao động nữ là 31.780 lao động chiếm 51,8%, nguồn lao động chủ yếu là trẻ và khoẻ. Số lao động có trình độ chuyên môn cao rất ít, trên đại học chỉ có 32 người, đại học và cao đẳng có 666 người.
Huyện Bến Lức có rất nhiều tiềm năng cần được phát huy mạnh mẽ hơn nữa trong giai đoạn kế tiếp với những bước đi thích hợp. Trong giai đoạn này lực lượng lao động cần được đào tạo và đào tạo lại tay nghề để nắm vững những thành tựu khoa học kỹ thuật, áp dụng vào trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp.

LeGiang
01-01-1970, 07:00 AM
HUYỆN CẦN ĐƯỚC</span><span style=\'color:purple\'>

Điạ chỉ: Khóm 1 thị trấn Cần Đước, huyện Cần Đước.
Điện Thoại: 881244, Fax: 881992

Huyện Cần Đước có 17 xã - thị trấn, bao gồm: thị trấn Cần Đước, xã Long Trạch, Long Khê, Long Định, Phước Vân, Long Cang, Long Sơn, Long Hoà, Tân Trạch, Phước Tuy, Phước Ân, Tân Chánh, Mỹ Lệ, Tân Lân, Phước Đông, Long Hựu Tây, Long Hưu Đông. Trong đó, thị trấn Cần Đước là trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội của huyện.

Diện tích tự nhiên của huyện là 219,57 km2 chiếm 4,85% diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Huyện Cần Đước có 17 xã - thị trấn, bao gồm: thị trấn Cần Đước, xã Long Trạch, Long Khê, Long Định, Phước Vân, Long Cang, Long Sơn, Long Hoà, Tân Trạch, Phước Tuy, Phước Ân, Tân Chánh, Mỹ Lệ, Tân Lân, Phước Đông, Long Hựu Tây, Long Hưu Đông. Trong đó, thị trấn Cần Đước là trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội của huyện, cách thị xã Tân An 30 km theo đường chim bay, cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 31 km.

LeGiang
01-01-1970, 07:00 AM
HUYỆN CẦN GIUỘC</span>

Địa chỉ: Chợ Mới thị trấn Cần Giuộc huyện Cần Giuộc
Điện thoại: 874212, Fax: 875181

Diện tích tự nhiên của huyện Cần Giuộc là 207,18 km2. Về đơn vị hành chánh toàn huyện có 1 thị trấn và 16 xã, trong đó thị trấn Cần Giuộc là trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội của huyện. Các đơn vị còn lại là: xã Phước Lý, xã Long Thượng, xã Phước Hậu, xã Mỹ Lộc, xã Phước Lâm, xã Thuận Thành, xã Long Hậu, xã Tân Kim, xã Trường Bình, xã Long An, xã Phước Lại, xã Phước Vĩnh Tây, xã Long Phụng, xã Đông Thạnh, xã Phước Vĩnh Đông, xã Tân Tập.

1- Vị trí địa lý, kinh tế:
là một huyện thuộc vùng hạ nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Long An, phía Bắc giáp huyện Bình Chánh - TP Hồ Chí Minh; phía Đông giáp huyện Nhà Bè và huyện Cần Giờ TP HCM; phía Nam và Tây Nam giáp huyện Cần Đước; phía Tây giáp huyện Bến Lức. Cần Giuộc nằm ở vành đai vòng ngoài của vùng phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam, là cửa ngõ của TP HCM tới các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long qua quốc lộ 50, từ biển Đông qua cửa sông Soài Rạp và hệ thống đường thủy thông thương với các tỉnh phía Nam.
- Lợi thế: Rất thuận tiện cho việc giao lưu hàng hóa trong và ngoài nước; Có điều kiện thu hút các nguồn tiết kiệm từ bên ngoài tham gia đầu tư trên địa bàn; Có điều kiện tiếp thu nhanh và ứng dụng tốt khoa học kỹ thuật.
- Hạn chế: Chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ của Thành phố Hồ Chí Minh trong việc thu hút vốn đầu tư, chất xám và lao động có tay nghề. Nằm cận biển, đất thấp và tính chất cơ lý yếu nên đầu tư xây dựng chi phí ban đầu cao.
Diện tích tự nhiên của huyện là 207,18 km2. Về đơn vị hành chánh toàn huyện có 1 thị trấn và 16 xã, chia làm 2 tiểu vùng:
+ Tiểu vùng thượng bao gồm 9 xã và thị trấn: Thị trấn Cần Giuộc, Phước Lý, Long Thượng, Phước Hậu, Mỹ Lộc, Phước Lâm, Thuận Thành, Long An, Tân Kim, Trường Bình. Tiểu vùng này đã được ngọt hóa đảm bảo nguồn nước cho phát triển sản xuất nên phát triển khá mạnh, nhất là nông nghiệp.
+ Tiểu vùng hạ gồm 7 xã: Long Hậu, Phước Lại, Phước Vĩnh Tây, Long Phụng, Đông Thạnh, Phước Vĩnh Đông và Tân Tập. Tiểu vùng này bị nhiễm phèn nặng, mặc dù có đê Ông Hiếu nhưng chưa phát huy tác dụng nên còn rất khó khăn trong sản xuất và đời sống.

2- Thời tiết khí hậu:
Huyện có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình 26,7oC, độ ẩm trung bình năm là 82%. Một năm chia thành 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10, mùa nắng từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau. Số giờ nắng 7,2 h/ngày, bình quân năm 1.800-2.000 h. Gió thổi theo hướng Đông Nam từ tháng 11 đến tháng 4, theo hướng Tây Nam từ tháng 5 đến tháng 10. Tốc độ gió bình quân 1,8 m/giây, max 30 m/giây.

3- Nguồn nước:
Hệ thống sông rạch huyện Cần Giuộc khá chằng chịch và nhất là sông Rạch Cát và Sông Nhà Bè nên qui mô nguồn nước mặt khá lớn. Tuy nhiên do nằm cạnh biển Đông, chịu ảnh hưởng của triều nên độ mặn khá cao, nhất là khu vực vùng hạ đã ảnh hưởng không tốt đến sản xuất và đời sống sinh hoạt của dân cư. Được sự hỗ trợ của Trung ương và tỉnh, kết hợp vốn huyện đã xây dựng một số hệ thống ngăn mặn, trữ ngọt đáp ứng được phần nào nhu cầu sản xuất và đời sống dân cư.
Nguồn nước ngầm phân bố trên địa bàn huyện không đều, vùng thượng có trữ lượng khá, vùng hạ trữ lượng ít. Tầng nước ở độ sâu 180-300 mét. Chất lượng nước kém, hàm lượng sắt từ 7-20 mg/l, hàm lượng muối khoảng 400mg/l, độ cứng 300 mg/l. Do vậy, việc khai thác nguồn nước ngầm cho mục đích sinh hoạt phải qua xử lý rất tốn kém.

4- Địa hình - Thổ nhưỡng:
Địa hình của huyện thấp và bằng phẳng, mang đặc trưng chung của Đồng bằng Sông Cửu Long. Có sự khác biệt rõ nét về thổ nhưỡng giữa vùng Thượng và vùng Hạ. Cao độ so với mặt biển là 0,5 - 0,8mét. Độ dốc nhỏ và nghiêng đều, thấp dần từ Tây sang Đông. Thổ nhưỡng của huyện chia thành 4 nhóm đất chính như sau:
+ Nhóm đất phù sa ngọt 6.594 ha chiếm 34,45% diện tích tự nhiên, chủ yếu nằm ở phía Tây và phía Bắc của vùng thượng bao gồm các xã Phước Lý, Phước Hậu, Phước Lâm, Mỹ Lộc, Trường Bình và Thị trấn Cần Giuộc. Đất có hàm lượng dinh dưỡng khá, địa hình tương đối cao, thích hợp cho cây lúa, rau màu và hoa quả.
+ Nhóm đất phù sa nhiễm mặn 3.329 ha, chiếm tỷ lệ 17,4% diện tích tự nhiên của huyện và phân bổ ở phía Đông sông Cần Giuộc bao gồm các xã Long Hậu, Phước Lại, Phước Vĩnh Tây, Long Phụng và Đông Thạnh. Đất có hàm lượng dinh dưỡng khá, thích nghi với cây lúa.
+ Nhóm đất phèn không nhiễm mặn có diện tích là 1.039 ha, chiếm tỷ trọng 5,4% diện tích tự nhiên của huyện bao gồm các xã Thuận Thành, Long An, Trường Bình. Đất này thích nghi với cây lúa.
+ Nhóm đất phèn nhiễm mặn 6.049 ha, chiếm 31,6% diện tích tự nhiên của huyện và bằng 60,2 % diện tích đất phèn mặn của tỉnh, phân bổ ở phía Đông Cần Giuộc bao gồm các xã Long Hậu, Phước Lại, Phước Vĩnh Đông, Tân Tập, Long Phụng và Đông Thạnh. Đất có hàm lượng dinh dưỡng khá, thích hợp cây lúa và phát triển thủy sản. Hiện đang bố trí lúa 1 vụ.

5- Hiện trạng sử dụng đất:
Hệ số sử dụng đất tương đối thấp, bình quân chung là 1,46. Trong đó hệ số sử dụng vùng thượng khoảng 2,3 và vùng hạ có hệ số là 1.
Cơ cấu đất năm 2000 được ghi nhận như sau: Đất nông nghiệp 15.733 ha chiếm 75,94% diện tích tự nhiên, đất lâm nghiệp 300 ha chiếm 1,45%, đất ở 1.246 ha chiếm 6,88%, đất chuyên dùng 1.117 ha chiếm 5,39%, đất chưa sử dụng 178 ha chiếm 0,86%, đất sông rạch 1.963 ha chiếm 9,45% diện tích tự nhiên.

6- Tài nguyên khoáng sản:
Theo các tài liệu điều tra về đất đai, thổ nhưỡng, đến nay chưa phát hiện tài nguyên khoáng sản nào phân bố trên địa bàn huyện.

7- Dân số và lao động:
Dân số trung bình của huyện năm 1999 là 151.853 người, mật độ dân cư là 724 người/km2, cao hơn so với trung bình của tỉnh (294 người/km2 và bằng 1,27 lần so với vùng phía Nam của tỉnh). Phân theo vùng lãnh thổ gồm: vùng thượng số nhân khẩu 90.388 người, chiếm tỷ trọng là 60% trong tổng số dân, mật độ bình quân là 1.008 người/km2; vùng hạ 61.435 người, chiếm 40% trong tổng số dân của huyện, mật độ bình quân là 523 người/km2. Tốc độ tăng dân số trung bình qua 2 cuộc điều tra thời kỳ 1989-1999 tương đối thấp (0,86%).
Tổng số lao động năm 1999 là 73.255 người, chiếm 48,25% dân số. Trong đó lao động nông nghiệp 44.119 người chiếm là 60,23%, khu vực công nghiệp và xây dựng 3.610 người chiếm 4,93%, khu vực thương mại và dịch vụ là 6.974 người chiếm tỷ lệ 9,5%, lao động dự trữ là 18.552 người, chiếm 25,33%.
Về chất lượng lao động, theo thống kê năm 1997 còn ở mức độ thấp, chủ yếu là lao động phổ thông chưa qua đào tạo. Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm tỷ lệ thấp dưới mức trung bình của tỉnh (11%). (Xem bảng 1). Lao động có trình độ chuyên môn qua đào tạo chiếm tỷ lệ thấp 5,53%, dưới mức trung bình của tỉnh 11%.

8. Đánh giá khái quát chung
Lợi thế:
- Vị trí địa lý của huyện là một lợi thế so sánh hàng đầu, là cửa ngõ giao lưu hàng hóa của huyện, của tỉnh.
- Tiếp giáp với thành phố Hồ Chí Minh - một thị trường lớn tiêu thụ các sản phẩm mà bản thân thành phố không có khả năng sản xuất được, đó là lương thực, thực phẩm.
- Điều kiện địa hình tương đối bằng phẳng, thuận lợi phát triển nông nghiệp đa dạng với các loại sản phẩm chủ lực như lương thực, rau xanh, thủy sản nước mặn. Huyện có khả năng thu hút đầu tư từ thành phố Hồ Chí Minh, đầu tư nước ngoài nếu hệ thống hạ tầng được cải thiện. Đồng thời huyện cũng có tiềm năng phát triển dịch vụ vận tải, nhất là vận đường sông, đường biển.
- Là huyện đông dân, nguồn lao động khá dồi dào, cần cù, kỹ năng lao động khá, có khả năng tiếp cận các phương pháp sản xuất mới.
Hạn chế:
- Tiềm lực kinh tế còn yếu, cơ cấu kinh tế chủ yếu là thuần nông, chưa có khả năng tích lũy từ nội bộ. Thu ngân sách chưa đảm bảo nhu cầu chi thường xuyên nên việc đầu tư và hỗ trợ đầu tư từ ngân sách có nhiều hạn chế. Nguy cơ tụt hậu so với tỉnh và cả nước đang đe dọa.
- Cơ sở hạ tầng của huyện nhìn chung còn yếu kém, các tuyến giao thông đối ngoại chưa được đầu tư hoàn chỉnh, đồng bộ, mạng lưới giao thông nông thôn còn nhiều yếu kém nhất là vùng hạ. Các hạ tầng xã hội cơ bản phục vụ y tế, giáo dục, văn hóa xã hội, thể dục thể thao... còn nhiều bất cập đang là những cản ngại lớn trong quá trình phát triển.
- Đại bộ phận dân cư có đời sống khó khăn, nhất là vùng hạ, thu nhập bình quân còn quá thấp, chỉ đạt 40-50% mức bình quân của toàn tỉnh.
- Tài nguyên khoáng sản hầu như không có, nguồn nước ngọt, nước sạch cung cấp cho sản xuất và sinh hoạt còn rất hạn chế. Xâm nhập mặn ngày càng xâu và độ măn ngày càng cao, khả năng cải tạo đất rất hạn chế và chi phí đầu tư rất lớn.
- Nằm trong vùng ngoại vi thành phố Hồ Chí Minh nên tệ nạn xã hội trên địa bàn còn khá nhiều.

9. Quan điểm và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội huyện
Thời cơ
- Xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa và hội nhập tạo cơ hội mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới và khu vực tạo điều kiện thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp. Khả năng đầu tư nước ngoài trên địa bàn là khá lớn nếu hạ tầng được đầu tư khá cơ bản.
- Nằm tiếp giáp với địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam, Cần Giuộc là vùng lan tỏa công nghiệp trong quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp. Thị trường tiêu thụ hàng hóa của Cần Giuộc là thành phố Hồ Chí Minh, nên huyện có nhiều ưu thế trong các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Chiến lược phát triển Nam Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh tạo điều kiện lan tỏa khu vực đô thị sang Cần Giuộc trong tương lai gần, qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng, đô thị hóa nông thôn nếu tạo được mối liên kết chặt chẽ với thành phố .
- Tiếp cận với biển Đông qua cửa sông Soài Rạp nên khả năng phát triển dịch vụ vận tải biển là hiện thực nếu Soài Rạp được nạo vét và cảng tổng hợp được Trung ương đầu tư .
- Chủ trương phát triển khu vực phía Nam Thành phố Hồ Chí Minh, nhất là khu công nghiệp Hiệp Phước mở rộng khả năng tìm kiếm việc làm, nâng cao thu nhập người lao động trong vùng.
- Chính phủ có chủ trương hỗ trợ những vùng, những khu vực còn nhiều khó khăn. Tỉnh có chủ trương tăng cường nguồn lực đầu tư phát triển vùng hạ theo tinh thần Nghị quyết số 18, tạo khả năng thu ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các vùng trong tỉnh.
- Khoa học kỹ thuật nhất là tin học hóa ngày nay phát triển rất nhanh, Long An nói chung và Cần Giuộc nói riêng sẽ có điều kiện tiếp cận nhanh chóng nhằm nâng cao năng suất lao động, tăng cường khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa.
Thách thức
- Trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa và hội nhập, đòi hỏi Long An nói chung và Cần Giuộc nói riêng phải đẩy nhanh chiến dịch tăng tốc để tránh nguy cơ tụt hậu và tiến đến mức trung bình tiên tiến của cả nước.
- Chi phí đầu tư bình quân trên địa bàn khá cao so với vùng do kết cấu đất bời rời và địa hình khá thấp so với biển.
- Tích lũy từ nội bộ kinh tế huyện còn quá yếu, tài nguyên khoáng sản không có, điều kiện tự nhiên tương đối khắc nghiệt, cơ sở hạ tầng nói chung còn dưới mức trung bình của tỉnh, nhất là vùng hạ sẽ hạn chế việc thu hút các nguồn lực.
- Trình độ dân trí còn quá thấp, trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động kém, chủ yếu là lao động phổ thông là một cản ngại không nhỏ trong quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành, cơ cấu khu vực.
- Đời sống dân cư đại bộ phận còn khó khăn, mức thu nhập bình quân hàng năm chỉ bằng 57- 58% của tỉnh.

10. Quan điểm quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội của huyện Cần Giuộc đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 nhằm tìm ra con đường phát triển hiệu quả, phù hợp điều kiện bên trong và bên ngoài, đạt được các mục tiêu tăng trưởng và bền vững, nâng cao mức sống dân cư, xây dựng xã hội văn minh, hiện đại, dựa trên những quan điểm cơ bản sau:
- Xây dựng nền kinh tế mở, đa dạng theo cơ chế thị trường có sự quản lý Nhà nước, liên kết chặt chẽ với thị trường của thành phố Hồ Chí Minh. Phát huy và sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng và nguồn nhân lực của huyện, tranh thủ nguồn hỗ trợ của Chính phủ, của vùng, của tỉnh nhằm tạo đà cho bước đi ban đầu.
- Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng và phát triển kinh tế hợp tác trên tinh thần tự nguyện của người lao động. Chuyển giao khoa học kỹ thuật, hỗ trợ kinh tế hộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VII). Phát triển kinh tế cá thể, giúp họ làm giàu chính đáng theo pháp luật.
- Kết hợp hài hòa nội lực và ngoại lực, đầu tư có trọng điểm, đầu tư tập trung những nơi hội tụ được các yếu tố phát triển nhanh. Khai thác các lợi thế về vị trí địa lý, khai thác hợp lý tài nguyên đất, nước, tăng cường năng lực xuất khẩu. Lấy hiệu quả kinh tế và chất lượng cuộc sống làm tiêu chuẩn phát triển.
- Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên mọi lĩnh vực, phấn đấu tốc độ tăng trưởng cao và bền vững. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực và hiệu quả, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
- Xây dựng xã hội công bằng văn minh, thu ngắn khoản cách về điều kiện sống, sinh hoạt và học tập giữa vùng vùng Hạ và vùng Thượng, giữa Cần Giuộc và các huyện khác trong tỉnh, quan tâm hơn nữa các mặt phúc lợi công cộng. Phát triển nguồn nhân lực, nâng cao mặt bằng dân trí đảm bảo quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo tinh thần Nghị quyết 18 của Tỉnh ủy Long An.
- Phát triển kinh tế kết hợp bảo vệ và làm giàu môi trường sinh thái. Phối hợp với thành phố Hồ Chí Minh khắc phục tình trạng ô nhiễm nguồn nước mặt do ảnh hưởng của yếu tố ngoại lai.
- Phát triển kinh tế kết hợp chặt chẻ với an ninh quốc phòng, cũng cố vững chắc vị trí tiền tiêu an ninh, quốc phòng của tỉnh.

11. Mục tiêu chung:
Thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả, ổn định và bền vững theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các vùng. Xây dựng và phát triển các nguồn lực tương đồng với mức bình quân của tỉnh. Hình thành cơ cấu kinh tế công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp. Nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư về mọi mặt bằng mức trung bình của toàn tỉnh, đặc biệt quan tâm đến vùng khó khăn, các đối tượng chính sách, đối tượng nghèo. Cũng cố vững chắc vị trí tiền tiêu an ninh quốc phòng.

12. Mục tiêu cụ thể:<span style=\'color:purple\'>
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2001- 2010 là 9,4%. Trong đó giai đoạn 2001-2005 (giai đoạn I) là 9,5%, giai đoạn 2006 - 2010 (giai đoạn II) là 9,2%.
- Cơ cấu kinh tế
+ Năm 2005 khu vực nông lâm nghiệp là 36,2%; khu vực công nghiệp là 23,1% và khu vực thương mại dịch vụ là 40,7%,
+ Năm 2010 khu vực nông lâm nghiệp là 27,9%; khu vực công nghiệp là 32,4% và khu vực thương mại dịch vụ là 39,7%,
- Thu nhập bình quân đầu người năm 2005 là 5 triệu đồng và năm 2010 là 8,34 triệu đồng.
- Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hàng năm đạt 12-14%, từ nay đến năm 2010 tập trung vào lĩnh vực chế biến nông, hải sản.
- Tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách 7% năm 2005 và 10% năm 2010.
- Giảm tỷ lệ tăng dân số trung bình từ 1,32% năm 2000 xuống còn 1% năm 2010. Tạo việc làm cho trên 95% lao động trong độ tuổi.
- Năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo còn 5-6% và mức thu nhập bình quân trên 5 triệu đồng.
- Phổ cập tiểu học theo độ tuổi vào năm 2005 và phổ cập cấp II theo độ tuổi vào năm 2010.
- Phát triển các ngành thu hút nhiều lao động để giảm tỷ lệ người không công ăn việc làm xuống dưới mức 5%. Đối với các gia đình chính cách mạng cần có chính sách tạo việc làm cho con em gia đình họ nhất là hỗ trợ vốn để tạo việc làm.
- Trẻ em suy dinh dưỡng còn dưới 10% năm 2010.
- Tỷ lệ hộ nông thôn dùng điện 99% năm 2010.
- Tỷ lệ hộ sử dụng nước sạch năm 2010 khu vực đô thị 100% và khu vực nông thôn 95%.
- Nhà ở kiên cố và bán kiên cố năm 2010 trên 90%.

LeGiang
01-01-1970, 07:00 AM
HUYỆN CHÂU THÀNH</span>

Địa chỉ: Khóm 2 thị trấn Châu Thành huyện Châu Thành
Điện thoại: 877060, Fax: 877773

Huyện Châu Thành có 01 thị trấn và 12 xã. Thị trấn Tầm Vu là trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội của huyện. Các xã còn lại bao gồm: xã Hòa Phú, xã Vĩnh Công, xã Hiệp Thanh, xã dương Xuân Hội, xã Long Trì, xã An Lục Long, xã Thanh Phú Long, xã Phước Tân Hưng, xã Phú Ngãi Trị, xã Bình Qưới, xã Thuận Mỹ, xã Thanh Vĩnh Đông. Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện là 15.051,7 ha.

1. Vị trí và điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý: Huyện Châu Thành giáp ranh Thị xã Tân An, cách trung tâm Thị xã 12 km, cách thành phố Hồ Chí Minh 52 km theo tuyến Quốc lộ 1A và 42 km theo tuyến Quốc lộ 50. Phía Bắc giáp huyện Tân Trụ, ranh giới là sông Vàm Cỏ Tây; phía Nam giáp huyện Chợ Gạo và huyện Gò Công Tây tỉnh Tiền Giang; phía Đông giáp huyện Cần Đước, ranh hành chánh là sông Vàm Cỏ; phía Tây giáp huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang.
Huyện Châu Thành có giao thông thủy, giao thông bộ nên thuận lợi trong việc tiêu thụ nông sản phẩm, tiếp thu khoa học công nghệ để sớm phát triển nền nông nghiệp kỹ thuật cao, phát triển công nghiệp chế biến, phát triển thương mại - dịch vụ và đầu mối thu mua hàng nông sản. Đường tỉnh 827 và đường tắt Quốc lộ 50 sẽ là trục giao thông đối ngoại chính của Huyện nối liền các vùng kinh tế với nhau.
Huyện Châu Thành giáp sông Vàm Cỏ, đoạn gần Biển Đông, nhiều vùng đất bị nhiễm mặn, cuối nguồn nước ngọt lấy từ kênh Chợ Gạo và rạch Bảo Định nên việc sử dụng nước có khó khăn nhất là ở các xã Thanh Phú Long, Thuận Mỹ, Thanh Vĩnh Đông, nhiều vùng đất phù sa bị nhiễm mặn.
Theo phân vùng phát triển Nông Lâm Ngư nghiệp của tỉnh Long An thì huyện Châu Thành thuộc Tiểu vùng V (Tân Trụ, Châu Thành, Thị xã Tân An, nam Thủ Thừa, vùng Tây sông Vàm Cỏ Đông của nam Bến Lức) là vùng đất thuần thục, có thể chủ động nước 8 - 9 tháng, không ngập lũ, đã sản xuất 2 - 3 vụ lúa/năm trên hầu hết diện tích. Thích hợp phát triển nông nghiệp là vùng sản xuất lúa cao sản, đặc sản và đa dạng cây trồng trên nền đất lúa bằng các loại rau, màu thực phẩm, bắp lai, đậu nành và chăn nuôi gia cầm, bò sữa.

2. Điều kiện tự nhiên
Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, mỗi năm có 2 mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, lượng mưa bình quân từ 1.350 - 1.800 mm/ năm. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, nhiệt độ trung bình của năm là 27,0 C. Số giờ nắng vào khoảng 2.350 - 2.500 giờ/năm. Bình quân 6 - 7 giờ/ngày. Độ ẩm trung bình từ 87% - 89%. Tốc độ gió trung bình 2,8m/s, lớn nhất 3,8 m/s.
Huyện Châu Thành nằm trong vùng ĐBSCL nên có ưu thế về nhiệt độ, tổng tích ôn gần 3.000 oC, ánh sáng trên 800 giờ nắng/năm, lại ít chịu ảnh hưởng của lũ lụt nên thuận lợi trong việc đa dạng hóa cây trồng, thâm canh tăng vụ.
- Thủy văn:
Các kênh Hòa Phú, rạch Bà Lý, kênh Chiến Lược, kênh 30/4, sông Vĩnh Công tiếp nhận nước ngọt từ hệ thống rạch Bảo Định và kênh Chợ Gạo, chất lượng nước khá tốt nhưng lưu lượng bị hạn chế.
Châu Thành cũng như các huyện phía Nam của tỉnh ít chịu ảnh hưởng của mùa lũ, vào những tháng mưa tập trung (tháng 10, 11) gặp triều cường thì lũ lụt mới xảy ra, thời gian ngắn và mức độ ảnh hưởng không lớn, các xã ven sông như Thanh Phú Long, Thuận Mỹ, Thanh Vĩnh Đông nền địa hình thấp (từ 0,5 - 0,8m, hệ Hòn Dấu) nằm trong vùng ngập lũ, các xã có nền địa hình cao như Hòa Phú, Vĩnh Công (từ 1,0 - 1,4 m, hệ Hòn Dấu) ít bị ảnh hưởng. Đặc điểm địa hình của huyện Châu Thành là dốc thoai thoải theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, cao ở đầu nguồn nước ngọt và thấp ở cuối nguồn. Huyện Châu Thành đã có hệ thống đê bao nên đã ngăn được lũ. Ngập lũ cũng có tác dụng tích cực là đưa nhiều thủy sinh vật vào đồng ruộng, rửa mặn xổ phèn vào tạo phù sa cho đất. Vì vậy, dọc theo đê bao cần có cống điều tiết để kiểm soát mức ngập và thời gian ngập.
Nước mặn Biển Đông qua sông Soài Rạp - Vàm Cỏ dẫn sâu vào nội đồng theo 2 hướng chính là sông Vàm Cỏ Tây ở phía Bắc và sông Tra ở phía Nam. Do xu hướng mực nước biển dâng cao nên xâm nhập mặn cũng có xu hướng tăng nhanh về hàm lượng và thời gian nhiễm mặn. Do các huyện phía Bắc vùng ĐTM như Vĩnh Hưng, Mộc Hóa, Tân Thạnh, Thạnh Hóa sử dụng nguồn nước ngọt ngày càng tăng nên độ nhiễm mặn có xu hướng ngày càng tăng.
* Sông Vàm Cỏ Tây: nước sông bị xâm nhập mặn từ tháng 1 đến tháng 2, hàm lượng mặn 2g/l, từ tháng 3 đến tháng 5, hàm lượng mặn 4 g/l.
* Sông Vàm Cỏ và sông Trà gần Biển hơn nên độ nhiễm mặn cũng cao hơn, khoảng 4g/l, thời gian nhiễm mặn kéo dài 6 - 7 tháng/năm.
Huyện Châu Thành đã có hệ thống cống ngăn mặn và điều tiết nước, cần tiếp tục nạo vét kênh, rạch dẫn nước ngọt, bố trí cơ cấu cây trồng, mùa vụ hợp lý để né mặn.

3. Địa hình - địa chất
Các xã vùng Thượng có địa hình cao như Long Trì, An Lục Long, Hiệp Thạnh, Vĩnh Công, Hòa Phú... nền mặt ruộng cao từ 1,0 - 1,4m. Các xã vùng Hạ như Thanh Vĩnh Đông, Thuận Mỹ, Phú Ngãi Trị, Phước Tân Hưng, Bình Qưới... nền mặt ruộng từ 0,5 - 0,8m, riêng xã Thuận Mỹ có gò cao nằm ở bến đò Thuận Mỹ - Cần Đước, đỉnh gò cao 2,2m.
Cao độ trung bình toàn Huyện từ 0,8 - 1,2m, cao ở phía đầu nguồn nước ngọt, thấp cuối nguồn, thuận lợi cho công việc dẫn nước ngọt vào đồng ruộng nhưng thấp về cuối sông nên nước mặn cũng dễ xâm nhập.
Huyện Châu Thành có 4 nhóm đất:
+ Đất phù sa: diện tích 7.958 ha, chiếm tỷ lệ 53,4%, bao gồm đất phù sa sông Vàm Cỏ có tầng loang lỗ đỏ vàng (chiếm 21%, diện tích 1.650 ha) và đất phù sa sông Cửu Long có tầng loang lỗ đỏ vàng (chiếm 79%, diện tích 6.308 ha). Phân bố khá tập trung ở các xã Hòa Phú, Vĩnh Công, Hiệp Thạnh, Dương Xuân Hội, Long Trì, An Lục Long và thị trấn Tầm Vu. Đất phù sa có độ pHH20 = 4,5 - 5,5, mùn tầng mặt từ khá đến giàu đạm tổng số từ 0,14 - 0,22, nhiều dinh dưỡng nên canh tác lúa được 2 - 3 vụ/năm.
+ Đất mặn: chiếm tỷ lệ 8,09%, diện tích 1.218 ha, bao gồm nhóm đất ít mặn 276 ha (chiếm 23%) và nhóm đất mặn 942 ha (chiếm 77%). Phân bố ở các xã ven sông như Thuận Mỹ, Thanh Vĩnh Đông, một phần Thanh Vĩnh Long và rãi rác ngoài đê của các xã Bình Qưới, Phú Ngãi Trị …. Đất mặn thích hợp với nuôi trồng thủy sản hơn là canh tác lúa.
+ Đất phèn: chiếm tỷ lệ 9,16%, diện tích 1.378 ha. Phân bố ở các xã ven sông Vàm Cỏ và Vàm Cỏ Tây, xa nguồn nước ngọt nên trồng trọt gặp nhiều khó khăn, muốn canh tác lúa 2 - 3 vụ cần có hệ thống thủy nông hoàn chỉnh, tháu chua rửa phèn, kết hợp với việc sử dụng giống, phân bón, bố trí mùa vụ hợp lý và kỹ thuật canh tác tốt.
+ Đất líp (đất xáo trộn) : Chiếm tỷ lệ 24,92%, diện tích 3.7514 ha. Phân bố hầu như khắp các xã. Đất líp hiện dùng làm đất ở, xây dựng cơ bản, trồng cây lâu năm, cây ăn quả, chủ yếu là cây thanh long, dừa, mãng cầu.

4 Tài nguyên
Nước mặt: huyện Châu Thành có tài nguyên nguồn nước mặt dồi dào vào mùa mưa nhưng thiếu nước vào mùa khô, có nhiều sông, rạch chảy qua như sông Vàm Cỏ, sông Vàm Cỏ Tây, sông Tra, rạch nhỏ và hệ thống kênh thủy lợi nội đồng.
+ Sông Vàm Cỏ có 8,12 km chiều dài nằm trong ranh giới Huyện, chiều rộng mặt sông 765m, khả năng tưới 500 ha, tiêu 600 ha, khả năng thoát nước 15.000 m3/s
+ Sông Vàm Cỏ Tây có chiều dài 30,27 km nằm trong ranh giới Huyện, chiều rộng mặt sông 200m, khả năng tưới 500 ha, tiêu 1.800 ha, khả năng thoát nước 3.900 m3/s.
+ Sông Tra có chiều dài 11,1 km nằm trong ranh giới Huyện, chiều rộng mặt sông 150m, khả năng tưới 600 ha, tiêu 730 ha, khả năng thoát nước 1.450 m3/s.
+ Toàn huyện có 181 kênh, rạch, có chiều dài 428,6 km, chiều rộng mặt kênh phổ biến là 3 - 3,5m, chiều sâu phổ biến là 1,5m, khả năng tưới 17.600 ha, tiêu 21.300 ha, khả năng thoát nước 1.000 m3/s.
Nước ngầm: Theo tài liệu của Liên đoàn Địa chất - Thủy văn và kết quả khoan khai thác của chương trình nước sạch nông thôn tầng nước ngầm xuất hiện ở độ sâu 200m có thể sử dụng tốt, sâu hơn 200m sẽ gặp các vết gãy địa tầng chứa nhiều kiềm làm nước cứng, chất lượng kém. Cần sớm xây dựng một vài nhà máy khai thác nước ngầm gần vỉa nước có trữ lượng lớn để cấp nước sinh hoạt cho các cụm dân cư tập trung có từ 1.000 dân trở lên.

5. Dân số và nguồn nhân lực
Dân số trung bình huyện Châu Thành đến năm 2000 là 99.077 người, bằng 7,48% dân số toàn Tỉnh, trong đó dân số đô thị là 6.345 người, chiếm 6,4% dân số huyện, mật độ dân số bình quân là 649 người/km2 (tháng 4/1999). trong đó dân số phi nông nghiệp là 15.472 người chiếm 15,67% dân số huyện. Tỷ lệ sinh bình quân thời kỳ 1991-2000 là 20,96%, tỷ lệ chết bình quân 5,35%, tốc độ tăng dân số bình quân 0,63%. Trong thời kỳ này có giảm cơ học do di dân Đồng Tháp Mười và lao động di chuyển lên Tp. Hồ Chí Minh.
Lao động trong độ tuổi (LĐTĐT) năm 2000 là 50.939 người, chiếm 51,41% dân số huyện. Trong đó lao động đô thị là 3.244 người, chiếm 6,39% LĐTĐT Huyện. Lao động trong khu vực I là 36.991 người chiếm 71,58%, khu vực II 1.769 người chiếm 3,47%, khu vực III 1.208 người chiếm 2,37%, số còn lại chưa tham gia lao động.
Lao động qua đào tạo là 2.701 người, chiếm 5,3% LĐTĐT. Trong đó công nhân kỹ thuật và nhân viên nghiệp vụ qua đào tạo 695 người, chiếm 1,36%; trung học chuyên nghiệp có 1.115 người chiếm 2,19%; cao đẳng có 527 người chiếm 1,03%; đại học có 363 người chiếm 0,71%; trên đại học có 1 người chiếm 0,02%. Tổng lao động qua đào tạo là 2.701 người, chiếm 5,30%. Trong tương lai cần thiết đẩy nhanh hơn nữa tốc độ đào tạo lao động để lao động qua đào tạo đạt từ 12% - 15% LĐTĐT, chú ý đến hướng nghiệp vào các khu công nghiệp để đối tượng chưa tham gia lao động có cơ hội tham gia lao động.

6. Hiện trạng phân vùng kinh tế:
Với đặc điểm về địa hình, tài nguyên nước và hiện trạng phát triển kinh tế xã hội có thể phác họa ra 3 Tiểu vùng với những nét đặc trưng có khác nhau :
- Tiểu vùng I: Phạm vi thuộc các xã Bình Qưới, Hòa Phú, Vĩnh Công, Hiệp Thạnh, Phú Ngãi Trị, Phước Tân Hưng. Diện tích 6.414,9 ha, chiếm tỷ lệ 42,62% tổng diện tích, đất phù sa sông Vàm Cỏ, sông Cửu Long và đất phèn tiềm tàng sâu ở địa hình thấp ven sông Vàm Cỏ Tây và rạch Tầm Vu. Hiện trạng phần lớn diện tích đất trồng lúa 3 vụ: Đông - Xuân, Hè Thu và Thu - Đông, một ít diện tích trồng lúa 1 vụ. Có nhiều vườn cây ăn quả các loại. Đang được ngọt hóa, từng bước ngăn mặn hoàn toàn. Có một số cơ sở chế biến, CNTTCN bước đầu phát triển. Hệ thống tuyến giao thông nền hạ khá tốt. Chăn nuôi phát triển, nhất là gà công công nghiệp.
Tiểu vùng II: Phạm vi thuộc các xã Long Trì, Dương Xuân Hội, An Lục Long, một phần Thanh Phú Long và thị trấn Tầm Vu. Diện tích 4.449,2 ha, chiếm tỷ lệ 29,55% tổng diện tích, toàn bộ là đất phù sa sông Cửu Long, địa hình cao, bằng phẳng, đã được ngọt hóa từ hệ thống rạch Bà Lý 1, rạch Ông Đăng, kênh Chiến Lược, kênh Cầu Đôi, kênh 30/4 ...., hầu hết diện tích không nhiễm mặn. Hiện trạng phần lớn diện tích đất trồng lúa 3 vụ : Đông - Xuân, Hè Thu và Thu - Đông, một ít diện tích trồng lúa 1 vụ. Có nhiều vườn cây ăn quả các loại và cây Thanh long. Người dân có kinh nghiệm trồng lúa cao sản. Có một số cơ sở chế biến, CNTTCN bước đầu phát triển. Hệ thống tuyến giao thông nền hạ khá tốt. Chăn nuôi phát triển, nhất là chăn nuôi bò thịt.
- Tiểu vùng III: Phạm vi thuộc các xã Thuận Mỹ, Thanh Vĩnh Đông và một phần xã Thanh Phú Long. Diện tích 4.191,9 ha, chiếm tỷ lệ 27,83% tổng diện tích, đất kém màu, địa hình thấp, thường bị ngập úng và xâm nhập mặn. Hiện trạng phần lớn diện tích đất trồng lúa 2 vụ : Hè Thu và Thu - Đông, một ít diện tích trồng 1 vụ. Có một ít vườn Mãng cầu, Dứa. Thích hợp nuôi tôm, cá nên vuông nuôi tôm, ao nuôi cá bước đầu phát triển. Hệ thống tuyến giao thông thấp kém.

7. Tài nguyên nhân văn:
- Đầu công nguyên, vùng lãnh thổ Long An chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Ốc Eo đến nay còn lưu lại bởi những công trình kiến trúc cổ. Năm 1698, Chúa Nguyễn Phúc Chu cử Nguyễn Hữu Cảnh vào thiết lập bộ máy hành chính, đất Long An lúc bấy giờ thuộc huyện Tân Bình, tỉnh Gia Định. Đến năm 1945, toàn Nam Bộ có 22 tỉnh và tỉnh Long An ngày nay bao trùm tỉnh Tân An và tỉnh Chợ Lớn. Năm 1976, Long An hợp nhất với Kiến Tường thành tỉnh Long An cho đến ngày nay.
- Dân cư Long An có lịch sử gắn liền với lịch sử khai phá mảnh đất này. Dân tộc sống trên địa bàn của Huyện đa số là người Kinh (chiếm 99,88%), người Hoa chiếm 0,108% còn lại là người Khơ Me và dân tộc khác.
Huyện Châu Thành tuy không nằm trên quy hoạch tuyến du lịch nhưng cũng có những di tích văn hoá còn lưu lại các công trình kiến trúc cổ như đình Tân Xuân, đình Long Phú, chùa Hưng Phước, mộ Nguyễn Thông.
- Các loại tài nguyên nhân văn khác như di tích lịch sử, văn hóa lễ hội, ngành nghề thủ công truyền thống, văn hóa dân gian như hò cấy, hò chèo ghe, hò xay lúa, làn điệu dân gia như câu vè, câu lý, các điệu múa hát hội, hát bội …. cũng có nhưng chưa có nét độc đáo đủ để thu hút khách du lịch nên trong Quy hoạch tổng thể du lịch từ nay đến năm 2010 chưa xếp vào tuyến du lịch.

8. Nhận xét:
Lợi thế :
- Lợi thế về vị trí địa lý : Giáp ranh với Tân An nên có điều kiện thuận lợi để hỗ trợ về mặt công nghệ, kỹ thuật, cây con giống chất lượng cao. Gần Tp. Hồ Chí Minh, là đô thị đông dân nhất nước, là trung tâm kinh tế - văn hóa - khoa học kỹ thuật - công nghệ - tài chính - xuất nhập khẩu của phía Nam, là thị trường tiêu thụ hàng hóa lớn nhất nước nên thuận lợi trong việc liên kết kinh tế, phát huy lợi thế so sánh (nguồn nguyên liệu nông sản thực phẩm, thị trường lao động giá rẻ, cần cù và tiếp thu nhanh công nghệ mới).
- Lợi thế về điều kiện tự nhiên : Khí hậu, thời tiết vùng nhiệt đới gió mùa thích hợp cho đa dạng hóa cây trồng. Đất đai phù sa ngọt chiếm tỷ lệ lớn, ít bị ngập lũ, nhiều sông, rạch, kênh, mương dẫn nước ngọt là điều kiện thuận lợi để thâm canh tăng vụ tăng năng suất cây trồng, trồng lúa cao sản. Diện tích mặt nước chiếm 1.018,7 ha, đạt tỷ lệ 6,69% diện tích tự nhiên. Có khoảng 8% diện tích tự nhiên có cao độ nền thấp thường xuyên bị ngập, nhiễm mặn là điều kiện thuận lợi để phát triển nuôi trồng thủy sản. Hầu hết diện tích còn lại là gò cao, không bị ảnh hưởng bởi lũ là điều kiện để phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm.
- Lợi thế về nhân lực : Lực lượng lao động dồi dào, chiếm gần 52% dân số là nhân tố rất thuận lợi để thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp và phát triển nông thôn mới. Nhân dân huyện Châu Thành trung dũng kiên cường, cần cù lao động, khiêm tốn học tập, lại được lãnh đạo bởi tập thể Đảng bộ có kinh nghiệm phát triển kinh tế và xây dựng Huyện, tốc độ phát triển kinh tế thời kỳ 1991-2000 đạt bình quân 7,4%, chắc chắn sẽ tiếp tục lãnh đạo thắng lợi trong thời kỳ mới 2001-2010.
Hạn chế:
- Hệ thống sông, rạch, kênh, mương tuy nhiều nhưng nguồn nước ngọt kém do phải dẫn xa, thời gian nhiễm mặn kéo dài (6 - 7 tháng trên sông Vàm Cỏ, Vàm Cỏ Tây và sông Tra là những con sông chính chảy qua Huyện ) nên nông nghiệp Huyện luôn bị tình trạng khan hiếm nước ngọt.
- Tuy có mạng lưới đường khá dày, chiều dài đường 146 km, mật độ đường hiện trạng đạt 0,97 km/km2 nhưng nền hạ chịu lực kém, mặt được hẹp và hầu hết còn là đường đất đỏ nên chưa phát huy hết tác dụng và chưa thể công nghiệp hóa ngành vận tải để phục vụ hữu hiệu thúc đẩy các ngành kinh tế khác cùng phát triển.
- Xu hướng xâm nhập mặn các vùng ven sông Vàm Cỏ ngày càng tăng nguyên nhân chủ quan là các huyện thuộc vùng Đồng Tháp Mười thực hiện khai hoang, khai thác nước sản xuất quá nhiều trong mùa kiệt nên khả năng lưu giữ nguồn nước ngọt bị giảm thấp, nguyên nhân khách quan là mực nước biển không ngừng dâng cao do nhiệt độ bầu khí quyển tăng làm tan nhanh hơn các tảng băng vùng cực của trái đất. Vì vậy, cần có nhiều cống ngăn mặn và cống điều tiết, chi phí xây dựng duy tu bảo dưỡng lớn.
Mặt bằng văn hóa cộng đồng còn thấp (xấp xỉ lớp 7), lao động qua đào tạo chiếm tỷ lệ quá nhỏ (3,64%) là trở ngại trong tiến trình đi lên công nghiệp hóa - hiện đại hóa.

9. Quan điểm và mục tiêu tổng quát phát triển kinh tế - xã hội huyện đến năm 2010:
Đối với huyện Châu thành, nông nghiệp là yếu tố nền tảng để phát triển kinh tế. Vì vậy, hiện đại hóa nông nghiệp là điều cấp bách cần thiết để tiến nhanh, chống tụt hậu và tạo ra nền sản xuất hàng hóa có tính cạnh tranh cao. Hiện đại hóa nông nghiệp thông qua việc học tập tiếp nhận công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, biết làm chủ được cây giống, con giống thế hệ F1, sạch bệnh, năng suất và chất lượng cao. Tập trung xây dựng hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để tạo động lực phát triển kinh tế, đặc biệt là xây dựng mạng lưới đường giao thông trục chính và giao thông đối ngoại, phát huy lợi thế giao thông thủy. Phát triển nền sản xuất hàng hóa cần phải tạo lập được thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu, chú trọng thị trường Tp. Hồ Chí Minh. Coi trọng việc hợp tác, liên kết kinh tế, kêu gọi đầu tư.
Quan điểm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp tăng tỷ trọng công nghiệp - XDCB và thương mại - dịch vụ để tạo nguồn giải quyết lao động. Trong thời kỳ 2001-2010, cơ cấu kinh tế huyện vẫn là nông - thương - công. Muốn được như vậy, phải dựa trên các quan điểm cụ thể sau:
- Coi trọng phát triển nông thôn tạo nên sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và xã hội: Dân số nông thôn chiếm 84,46%. Vì vậy, cần phải coi trọng phát triển nông thôn như mở mang hạ tầng kỹ thuật, phát triển hạ tầng xã hội như văn hóa - giáo dục - y tế- thể dục thế thao, phát triển nhà ở đô thị và nông thôn, phát triển ngành nghề phi nông nghiệp tại nông thôn tạo nên sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và xã hội.
- Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với củng cố an ninh quốc phòng: Đất nước có thanh bình, xã hội có an ninh trật tự thì mới yên tâm sản xuất và chăm lo đời sống.
- Phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện bảo vệ môi trường sinh thái : Chi phí để tái lập lại môi trường sinh thái trước khi bị phá hủy lớn hơn nhiều lần so với lợi ích thu được và đôi lúc không thể tái lập lại được. Tác hại của môi trường sinh thái bị mất cân bằng là không lường trước được. Vì vậy, phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện bảo vệ môi trường sinh thái là điều cần thiết.
- Phát triển kinh tế dựa vào nội lực có tranh thủ ngoại lực : Để phát triển trước hết cần phải dựa vào nội lực của nền kinh tế, bên cạnh đó cần tranh thủ sự hổ trợ từ nguồn vốn của Tỉnh và Trung Ương, xây dựng qui chế ưu đãi đầu tư để thu hút thêm nguồn vốn từ bên ngoài.

10. Mục tiêu tổng quát đến năm 2010:
- Tăng trưởng kinh tế: GDP toàn Huyện đạt 798.097 triệu đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 2001-2010 đạt trên 13,62% (Tỉnh là 8,66%).
- Cơ cấu kinh tế: Cơ cấu kinh tế là nông - công - thương. Trong cơ cấu kinh tế, nông nghiệp chiếm 52,30%, công nghiệp chiếm 25,10% và thương mại - dịch vụ chiếm 22,47%.
- GDP bình quân đầu người: GDP bình quân đầu người vào khoảng 674 USD/năm (Tỉnh là 750 - 800 USD).
- Tỷ lệ tích lũy từ GDP: Tỷ lệ tích lũy của nền kinh tế đạt 9% GDP (Tỉnh là 8 - 9%).
- Tăng dân số tự nhiên: Phấn đấu đạt 0,93% (tỉnh là 1,2%).
- Mặt bằng dân trí toàn xã hội: Tương đương lớp 9 (tỉnh là lớp 9).
- Y tế : mỗi xã đều có bác sỹ và 1 y tá.
- Tiện ích hạ tầng: Nhựa hóa tất cả tuyến đường giao thông, 100% hộ dùng điện và nước sạch.

11. Mục tiêu cụ thể:<span style=\'color:purple\'>
- Giá trị sản xuất (giá CĐ-94): GTSX năm 2005 đạt 523.740 triệu đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân của giai đoạn 2001-2005 là 8,64%. GTSX năm 2010 đạt 1.213.229 triệu đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân của giai đoạn 2006-2010 là 18,29%, tốc độ tăng trưởng cả thời kỳ 2001-2010 là 13,36%.
- Giá trị tăng thêm (giá CĐ 94) : GTTT năm 2005 đạt 346.214 triệu đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân của giai đoạn 2001-2005 là 9,23%. GTTT năm 2010 đạt 798.097 triệu đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân của giai đoạn 2006-2010 là 18,18%, tốc độ tăng trưởng cả thời kỳ 2001-2010 là 13,62%.
- GDP bình quân đầu người (giá HH) : Năm 2005 đạt 307 USD/năm. Phấn đấu đến năm 2010 đạt xấp xỉ 674 USD, tốc độ tăng thu nhập bình quân 13,3%/năm.
- Giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên : Phấn đấu giảm tỷ lệ tăng tự nhiên để đến năm 2005 còn 0,97%. Đến năm 2010 còn 0,93%, giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống còn 10%
- Phát triển giáo dục : Phát triển các điểm trường để có đủ trường lớp cho học sinh các độ tuổi vào học, điểm trường bám theo dân cư. Phấn đấu đến năm 2010 có 100% điểm trường được công nhận đạt chuẩn. Tỷ lệ huy động vào Nhà trẻ - Mẫu giáo đạt 45% vào năm 2005 và 70% vào năm 2010 (năm 2000 đạt 24%). Tỷ lệ huy động vào Cấp 1 đạt 100% vào năm 2005. Tỷ lệ huy động vào Cấp 2 đạt 100% vào năm (năm 2000 đạt 40%). Tỷ lệ huy động vào Cấp 3 (THPT và THPT kỹ thuật) đạt 70% vào năm 2005 và 80% vào năm 2010 (năm 2000 đạt 46%). Dự kiến phân luồng THPT Kỹ thuật chiếm tỷ lệ 30% học sinh Cấp 2 lên Cấp 3.
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo : vào khoảng 14 - 15% tổng số lao động.
- Phát triển và nâng cấp hạ tầng kỹ thuật : Đến năm 2010 hoàn thành nhựa hóa đường giao thông đối ngoại, đường trong thị trấn Tầm Vu và các đường giao thông trục chính (liên xã), có mở rộng cho phù hợp với lưu lượng. Chỉ tiêu dùng điện của năm 2010 tính cho sản xuất nông nghiệp đạt 300 Kwh/ha/năm, cho công nghiệp đạt 200.000 Kwh/ha/năm, cho sinh hoạt đạt 200 KWh/người/năm (hay 16,6 KWh/người/tháng). Chỉ tiêu dùng nước năm 2010 đạt 80 lít/người/ngày cho khu vực nông thôn và 120 lít/người/ngày cho khu vực thành thị.

LeGiang
01-01-1970, 07:00 AM
HUYỆN ĐỨC HOÀ </span>

Địa chỉ: Khu B thị trấn Đức Hoà huyện Đức Hoà
Điện thoại: 851993, Fax: 851993

Toàn huyện được chia thành 20 đơn vị hành chính cấp xã và thị trấn, thị trấn Hậu Nghĩa là huyện lỵ. Các đơn vị còn lại gồm: Thị trấn Đức Hoà, thị trấn Hiệp Hoà, xã Lộc Giang, xã An Ninh Đông, xã An Ninh Tây, xã Tân Mỹ, xã Hiệp Hoà, xã Tân Phú, xã Hoà Khánh Tây, xã Hoà Khánh Đông, xã Hoà Khánh Nam, xã Đức Lập Thượng, xã Đức Lập Hạ, xã Đức Hoà Thượng, xã Đức Hoà Đông, xã Đức Hoà Hạ, xã Mỹ Hạnh Bắc, xã Mỹ Hạnh Nam, xã Hựu Thạnh. Tổng diện tích tự nhiên là 42.169 ha, dân số 178.350 người (năm 1997).

1. Vị trí địa lý:
Đức Hoà là một tỉnh Long An, có diện tích tự nhiên là 42.169 ha, dân số 178.350 người. Huyện Đức Hoà có ranh giới với các đơn vị hành chính như sau: phía Bắc giáp huyện Trảng Bàng tỉnh Tây Ninh và huyện Củ Chi, huyện Hốc Môn thành phố Hồ Chí Minh, phía Đông Nam giáp huyện Bình Chánh TP. HCM, phía Tây giáp huyện Đức Huệ, phía Tây Nam giáp huyện Bến Lức.
Từ Đức Hoà có thể liên hệ thuận lợi với các thị trấn của thành phố Hồ Chí Minh nằm trên quốc lộ 22 và quốc lộ 1 (thị trấn Củ Chi, thị trấn Hốc Môn, thị trấn An Lạc) và các thị trấn của các quận tiếp giáp với huyện Đức Hoà. Tỉnh lộ 8 còn là trục giao thông quan trọng nối với quốc lộ 22 tạp thành trục giao thông liên hệ trực tiếp giữa Đông Nam bộ và Tây Nam bộ.

2. Đặc điểm tự nhiên:
- Địa hình: Là vùng đất tương đối bằng phẳng, độ cao bình quân 1- 2m, cao nhất là khu vực Lộc Giang +8m, thấp nhất là kênh Xáng Lớn + 0,6 m, độ cao dốc thoai thoải theo hướng Đông Bắc đến Tây nam.
- Thổ nhưỡng: Đất được chia thành 3 nhóm chính:
+ Nhóm đất phèn (Sn): phân bố dọc theo sông Vàm Cỏ Đông và kênh Thái Mỹ, tổng diện tích 1.179,5 ha, chiếm 29%.
+ Nhóm đất xám (X): Nằm ở vùng trung tâm huyện, dọc theo tỉnh lộ 10, kéo dài từ Lộc Giang đến thị trấn Đức Hoà, diện tích khoảng 19.930,7 ha, chiếm 48%.
+ Nhóm đất phù sa bồi (P/s): Tổng diện tích là 9.376,8 ha, chiếm 23%.
- Khí hậu - thuỷ văn: Huyện Đức Hoà chịu ảnh hưởng của khí hậu gió mùa, mưa nhiều, với lượng mưa trung bình hàng năm là 1.805 mmm, nhiệt độ trung bình là 27,70C. Nguồn nước cung cấp cho sản xuất nông nghiệp chủ yếu là sông Vàm Cỏ Đông và nhờ vào nguồn nước xả của hồ Dầu Tiếng.
Nhìn chung, khí hậu của huyện Đức Hoà có những thuận lợi cơ bản so với nhiều địa phương khác, độ chiếu sáng, độ ẩm cao, thuận lợi cho phát triển nhiều loại cây trồng, ít bị ảnh hưởng của thiên tại. Nguồn nước ngầm chủ yếu cung cấp cho sinh hoạt của nhân dân, đặc biệt là dân cư các khu vực đô thị.

3. Tài nguyên đất:
Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện là 42.169 ha trong đó đất nông nghiệp chiếm 80,42%, đất lâm nghiệp chiếm 2,68%, đất ở 3,03%, đất chuyên dùng 7,88%, đất chưa sử dụng 10,59%.
Nhìn chung, tài nguyên đất của huyện Đức Hoà có nhiều điều kiện cho phát triển công nghiệp, nguồn đất chưa sử dụng còn nhiều, địa hình tương đối bằng phẳng, thuận tiện cho việc san lấp mặt bằng và xây dựng cơ sở hạ tầng. Là địa bàn tiếp giáp với TP. HCM, điều kiện đất đai rất thuận lợi cho phát triển trang trại.

4. Dân số và nguồn nhân lực:
Tính đến năm 1997 huyện Đức Hoà có 178.350 người, gồm dân tộc kinh là chính, trong đó nữ 92.742 người chiến 52% dân số toàn huyện. Số người trong độ tuổi lao động là 80.258 người, chiếm 45% dân số. Mật độ dân số toàn huyện là 476,0 km2/người, cao nhất là thị trấn Đức Hoà, thị trấn Hậu Nghĩa, thị trấn Hiệp Hoà. Dân số sống tại các thị trấn trong huyện là 31.033 người, chiếm 17,4% dân số toàn huyện, trong đó lực lượng lao động là 13.965 người, chiếm 45% dân số đô thị.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm từ 2,45% năm 1991 xuống còn 1,6% năm 1997, là đơn vị có tỷ lệ tăng dân số tự nhiên thấp so với mức trung bình của toàn tỉnh.
Là huyện tiếp giáp TP. HCM song chất lượng nguồn nhân lực chưa được nâng cao, phần lớn lực lượng lao động chưa được đào tào qua trường lớp, lao động giản đơn vẫn giữ vai trò chính trong các hoạt động kinh tế của huyện.

5. Nhận xét đánh giá chung về xuất phát điểm của nền kinh tế huyện Đức Hoà:
- Về trình độ sản xuất và dịch vụ: Đức Hoà là huyện có nhiều tiềm năng đất đai cho phát triển đô thị và phát triển công nghiệp, tuy nhiên quá trình phát triển của huyện chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có. Trình độ sản xuất còn dựa vào tiềm năng thiên nhiên là chính, vì vậy sản xuất nông nghiệp vẫn là ngành chính trong các hoạt động kinh tế của huyện. Tuy vậy sản xuất nôngnghiệp vẫn còn ở trình độ thấp. Giá trị sản lượng bình quân cho 1 ha còn ở mức thấp so với trung bình toàn tỉnh do hệ số sử dụng đất và năng xuất cây trồng thấp.
Các ngành thương mại, dịch vụ kém phát triển mặc dù huyện có nhiều tiềm năng và điều kiện thuận lợi cho phát triển như: nằm kề TP. HCM- một thị trường lớn tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và là nơi có khả năng cung cấp các sản phẩm tiêu dùng cho huyện Đức Hoà. Các hoạt động thương mại- dịch vụ đều do các hộ gia đình và tư nhân tự tổ chức, chưa có sự chỉ đạo của các tổ chức quản lý nhà nước.
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp còn phát triển chậm, phần lớn các cơ sở công nghiệp trên địa bàn đều thuộc tỉnh quản lý, cơ sở tiểu thủ công nghiệp còn nhỏ cả về qui mô sản xuất và giá trị sản xuất. Các cơ sở liên doanh với nước ngoài và các tỉnh triển khai hoạt động còn chậm, còn mang tính chất dự trữ đất là chính. Trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ sản xuất trong công nghiệp còn lạc hậu, chủ yếu còn dùng sức người.
Các khu công nghiệp trên địa bàn huyện tuy đã được phép cho xây dựng, song quá trình triển khai chậm do những nguyên nhân của cuộc hủng hoảng tiền tệ tại Châu Á và do nguyên nhân nền kinh tế cả nước có sự chững lại.
Năng lực của hệ thống hạ tầng: Tuy là một huyện tiếp giáp với TP. HCM nhưng hệ thống cơ sở hạ tầng của huyện bộc lộ nhiều yếu kém, không tương xứng với yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
Mạng lưới giao thông vận tải đã vươn tới các xã, các khu công nghiệp, Đức Hoà là hai trong số 14 huyện, thị có 100% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã, tuy nhiên mật độ đường còn thưa, chất lượng đường còn xấu, hệ thống cầu chưa được cải tạo vì vậy xe có trọng tải lớn không đi lại được.
Hệ thống cấp thoát nước chưa được phát triển, toàn huyện chưa có nhà máy nước qua sử lý, số hộ dùng nước giếng đạt 97%. Hệ thống thoát nước chưa được xây dựng kiên cố, còn dựa vào điều kiện tự nhiên là chính.
Về chất lượng các vấn đề xã hội: Nhìn chung nhân dân huyện Đức Hoà có mức sống cao hơn một số huyện trong tỉnh song vẫn ở mức turng bình của tỉnh, mức thu nhập bình quân đầu người của tỉnh năm 1997 đạt 2,3 triệu đồng/người/năm, chỉ bằng 80% mức trung bình của tỉnh. Số hộ nghèo là 3.866 hộ chiếm 10,1% số hộ trong huyện. Trong số các hộ nghèo có tới 82,7% thuộc khu vực nông thôn. Số thuộc diện chính sách, già cả, neo đơn thuộc diện các hộ nghèo chiếm 15,6% tổng số hộ nghèo.

6. Những lợi thế so sánh và thời cơ phát triển
+ Về vị trí, chức năng:
- Đức Hoà là huyện tiếp giáp TP. HCM, nằm trong vành đai dãn nở công nghiệp và là thị trường lớn cung cấp các sản phẩm nông nghiệp và sảm phẩm chế biến cho TP. HCM.
- Các tuyến giao thông của huyện đã có mối liên kết với mạng lưới giao thông TP. HCM, trong tương lai tuyến quốc lộ N2 nối quốc lộ 22 chạy qua Đức Hoà tạo thành tuyến giao thông quan trọng nối các tỉnh Đông Nam bộ với các tỉnh Tây Nam bộ.
- Là không gian hỗ trợ đối với TP. HCM, cơ hội thuận tiện thúc đẩy nhanh quá trình đô thị hoá.
- Là động lực thúc đẩy công nghiệp của tỉnh Long An phát triển.
+ Về tiềm năng phát triển:
- Tiềm năng đất cho phát triển công nghiệp khá phong phú.
- Có khả năng phát triển cây công nghiệp và các loại nông sản cho giá trị hàng hoá xuất khẩu cao.
- Có tiềm năng phát triển các loại dịch vụ phục vụ nghỉ ngơi, giải trí của người dân thành phố.
- Nguồn lao động trẻ và phong phú.
+ Về thời cơ phát triển:
Sự phát triển của TP. HCM nói chung và của công nghiệp trên địa bàn trọng điểm phía Nam nói riêng là thời cơ thuận lợi thúc đẩy nền kinh tế của huyện Đức Hoà phát triển theo.
Phát triển kinh tế của huyện Đức Hoà không những góp phần thúc đẩy nhanh tiến độ phát triển kinh tế của tỉnh mà còn tạo cơ hội thu hút các khả năng liên doanh liên kết với các nước và với thành phố, đồng thời đẩy nhanh tiến trình đô thị hoá trên địa bàn huyện. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới cùng chính sách hoà nhập, toàn cầu hoá, khu vực hoá đã tạo cơ hội để huyện Đức Hoà thu hút nguồn tiết kiệm từ bên ngoài nếu điều kiện cơ sở hạ tầng được đáp ứng tốt.

7. Những hạn chế và thách thức sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện trong giai đoạn 2001 - 2010.
- Về tiềm năng kinh tế chưa cao, khả năng nguồn vốn đầu tư ít.
- Hạ tầng cơ sở phát triển kém: giao thông đối nội, đối ngoại chưa đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Mạng lưới điện, cung cấp nước chưa vươn tới các khu công nghiệp.
- Về các vấn đề xã hội: trình độ học vấn của nhân dân chưa cao, các cơ sở y tế, giáo dục còn nghèo về vật chất, mức độ đô thị hoá chưa cao.
- Là huyện tiếp giáp với TP. HCM, độ nhậy cảm về những vấn đề xã hội của thành phố có tác động tích cực đến tình hình kinh tế - xã hội của huyện, song những ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội của huyện cũng là một thách thức lớn đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện (các tệ nạn xã hội của thành phố lan toả ra khu vực ngoại thành).

8. Vai trò của huyện Đức Hoà trong tương lai:
Theo dự đoán dân số của huyện Đức Hoà đến năm 2000 là 206.284 người, năm 2005 là 223.323 người, năm 2010 có khả năng lên 240.582 người, chiếm 14,5% dân số toàn tỉnh. Đó là chưa tính đến việc di dân đi học hoặc đến huyện từ nơi khác, như là từ TP. HCM.
Với đặc điểm kinh tế - xã hội là nguồn lực phát triển cho thấy huyện Đức Hoà có vị trí quan trọng trong quá trình xây dựng kinh tế - xã hội của tỉnh như sau:
- Trung tâm phát triển kinh tế của tỉnh: Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh, Đức Hoà sẽ phát triển kinh tế tổng hợp, bao gồm: nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
- Đi đầu trong việc hình thành các khu cụm công nghiệp và có vai trò tác động thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
- Là địa bàn làm giảm bớt sự phát triển quá tập trung vào địa bàn kinh tế trọng điểm và hạn chế sự gia tăng dân số của thành phố Hồ Chí Minh.
- Là thị trường cung cấp các sản phẩm nông nghiệp cho nhân dân thành phố, đồng thời còn là địa bàn cung cấp nguồn nhân lực cho phát triển công nghiệp không những trên địa bàn huyện mà còn cung cấp cho thành phố Hồ Chí Minh.
- Là tiểu vùng của tỉnh Long An có tác dụng thúc đẩy các khu vực lân cận phát triển, đặc biệt là đối với huyện Đức Huệ.
- Nằm trên trục nối giữa Campuchia và thành phố Hồ Chí Minh thông qua tỉnh lộ 830, tỉnh lộ 7.

9. Quan điểm và tư tưởng chủ đạo:
Trên cơ sở vị trí, vai trò, chức năng và tiềm năng phát triển của huyện Đức Hoà, quan điểm và tư tưởng chỉ đạo phát triển của huyện được thể hiện ở các điểm sau:
- Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của huyện phải dựa trên phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh Long An, tạo thế phát tirển ổn định và bền vững, xây dựng huyện trở thành một trung tâm phát triển của tỉnh.
- Kết hợp chặt chẽ giữa nội lực (yếu tố bên trong) với ngoại lực (yếu tố bên ngoài), Phải khẳng định nội lực bao giờ cũng là nhân tố quyết định sự phát triển của nền kinh tế trong huyện, là cơ sở để tiếp nhận sự hợp tác và hỗ trợ của các huyện khác và của TP. HCM.
- Tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Phát triển công nghiệp hướng mạnh vào công nghiệp chế biến, công nghiệp hàng tiêu dùng và xuất khẩu.
- Kết hợp hài hoà giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế và mục tiêu công bằng xã hội, chính sách kinh tế phải coi trọng yếu tố xã hội, chính sách xã hội làm đòn bẩy thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế và hướng vào mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
- Đa dạng hoá các loại hình kinh tế, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế với cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Xác định được những nhiệm vụ then chốt để phát triển sản xuất và dịch vụ đủ sức cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường, đáp ứng được những nhu cầu phát triển của tỉnh.
- Coi trọng phát triển kết cấu hạ tầng sản xuất, đặc biệt là hạ tầng phục vụ sản xuất công nghiệp nhằm tạo ra sức hút mạnh mẽ nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài và nguồn đầu tư từ các vùng khác, tạo lập mối quan hệ chặt chẽ giữa khu vực đô thị với các khu vực xung quanh.
- Coi trọng việc áp dụng khoa học, công nghệ tiên tiến, kết hợp với phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt coi trọng đào tạo và đào tạo lại.

10. Các mục tiêu cơ bản:
- Phấn đấu đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn đạt mức tăng trung bình từ 10 - 12% thời kỳ 1998-2000; từ 9 - 10% thời kỳ 2000- 2005 và ổn định ở mức 8 - 10% trong giai doạn 2005- 2010.
- GDP năm 2000 đạt mức bình quân đầu người từ 250 - 270 USD và 550 - 600 USD vào năm 2010.
- Phấn đấu giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng với nhịp độ tăng trung bình hàng năm từ 20 - 25% trong 5 năm tới và 12 - 15% trong 10 năm tiếp theo.
- Tích cực các biện pháp chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng: công nghiệp, nôngnghiệp, thương mại - dịch vụ và du lịch. Trong những năm trước mắt duy trì phát triển nông nghiệp ổn định, làm cơ sở cho phát triển công nghiệp và dịch vụ.
- Phát triển mạnh lĩnh vực khoa học giáo dục và y tế. Nâng cấp hệ thống trường lớp, bệnh viện bảo đảo các cơ sở không còn nhà tranh, không còn tình trạng thiếu giao viên.
- Đáp ứng các nhu cầu cơ bản cho nhân dân về nhà ở, cung cấp điện, nước, nhu cầu đi lại, đảm bảo vệ sinh môi trường trong sạch, đáp ứng các nhu cầu vui chơi giải trí cho thanh thiếu nhi.
- Thực hiện tốt chương trình kế hoạch hoá gia đình, đảm bảo mức tăng dân số tự nhiên ở mức 1,6% từ nay đến năm 2000 và dưới 1,5% sau năm 2000.
- Phấn đấu tạo việc làm cho dân, đặc biệt là thanh thiếu niên mới trưởng thành.
- Đảm bảo ổn định an ninh quốc phòng, kết hợp phát triển kinh tế với an ninh quốc phòng.

11. Các nhiệm vụ then chốt:
<span style=\'color:purple\'> Để thực hiện tốt các mục tiêu đề ra, các nhiệm vụ then chốt trong giai đoạn mới là:
- Đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
- Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
- Tập trung phát triển các lĩnh vực then chốt trong từng lĩnh vực kinh tế, tạo thành các mũi nhọn thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, vững chắc và ổn định.
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuẩn bị lực lượng cho nguồn lao động kỹ thuật đáp ứng yêu cầu đổi mới.
- Phát triển nông thông theo quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá kết hợp chương trình xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới văn minh và hiện đại.

LeGiang
01-01-1970, 07:00 AM
HUYỆN ĐỨC HUỆ </span>

Địa chỉ: khu vực 2 thị trấn Đông Thành huyện Đức Huệ
Điện thoại: 854230, Fax: 854771

1. Vị trí địa lý kinh tế:
Huyện Đức Huệ nằm ở phía bắc tỉnh Long An với diện tích tự nhiên (DTTN) 43.092,4 ha, chia thành 10 đơn vị hành chính (9 xã và 1 thị trấn). Ranh giới hành chính huyện Đức Huệ tiếp giáp với 4 huyện của tỉnh Long An, tỉnh Tây Ninh và Campuchia, cụ thể phía Đông Bắc giáp huyện Đức Hòa, phía Nam và Đông Nam giáp huyện Thủ Thừa và Bến Lức, phía Tây và Tây Nam giáp huyện Thạnh Hóa tỉnh Long An và Campuchia
Đức Huệ ở vào vị trí là rìa phía Đông Bắc vùng Đồng Tháp Mười, tiếp giáp vùng Đông Nam bộ, là nơi chuyển tiếp từ Đông Nam bộ xuống ĐBSCL. Từ vị trí địa lý kể trên, tiếp nhận nguồn nước ngọt bổ sung từ hồ Dầu Tiếng, Đức Huệ phát huy thế mạnh sản xuất nông sản hàng hóa đặc trưng của ĐBSCL như: lúa, mía đường, thịt (heo, bò, vịt), tôm cá và lâm sản (tràm). Đồng thời, với vị trí là cửa ngõ gần nhất từ biên giới Campuchia - qua thị trấn Hậu Nghĩa về TP. Hồ Chí Minh, nên có lợi thế phát triển dịch vụ thương mại (xuất nhập khẩu qua biên giới), thu hút vốn đầu tư từ ngoài vào (kinh tế trang trại, dịch vụ, thương mại,. . .).
Trong tương lai, khi hoàn thành xây dựng các trục giao thông chính và tuyến đường vành đai biên giới N1 sẽ giúp cho Đức Huệ khai thác các lợi thế phát triển kinh tế - xã hội, nhất là kinh tế dịch vụ phát triển mạnh, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Tuy nhiên, vị trí địa lý cũng gây cho Đức Huệ một số hạn chế: Do là nơi chuyển tiếp giữa Đông Nam bộ và ĐBSCL với mẫu chất là phù sa cổ và phù sa mới cùng các vật liệu sinh phèn xen kẽ phủ lên nhau, nên 100% diện tích đất thuộc loại ''đất có vấn đề'', cộng với khi chưa có hồ Dầu Tiếng thì toàn bộ lãnh thổ huyện Đức Huệ bị nhiễm mặn 4 g/l từ 3 - 4 tháng/năm, kết cấu hạ tầng chậm được đầu tư và cũng là một trong những huyện nghèo nhất của tỉnh Long An (số hộ nghèo còn đến 19,3%). Đồng thời, với 25 km đường biên giới (thuộc 4 xã) là ''địa bàn nóng'' của nạn buôn lậu, lôi cuốn không ít nguồn nhân lực tham gia, gây trễ nải sản xuất nông nghiệp cũng như tâm lý kiếm tiền dễ dàng hơn là lao động chân chính.

2.Đặc điểm, điều kiện tự nhiên:
Khí hậu - thời tiết: Khí hậu huyện Đức Huệ mang tính chất đặc trưng nhiệt đới gió mùa với nền nhiệt cao đều quanh năm, ánh sáng dồi dào, lượng mưa khá lớn và phân bố theo mùa.
Theo số liệu quan trắc của trạm Hiệp Hòa nhiệt độ bình quân năm là 27,2oC, tháng 5 là tháng nóng nhất với nhiệt độ trung bình 29,7oC và tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất 23,6oC. Biên độ nhiệt trong năm dao động khoảng 6,1oC và biên độ nhiệt ngày và đêm dao động cao (từ 8oC đến 10oC). Tổng tích ôn 9.928oC/năm. Đây là điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp theo hướng thâm canh, đặc biệt là cây mía, lúa, ngô, rau đậu thực phẩm.
Lượng mưa trung bình năm khá lớn (1.970 mm/năm) và phân bố theo mùa rõ rệt. Tổng lượng mưa trong mùa mưa thực sự 1.325mm, bắt đầu ngày 16/V và kết thúc ngày 21/X (kéo dài 164 ngày). Mùa mưa trùng với mùa lũ gây ngập úng, cản trở quá trình sản xuất của phần lớn diện tích đất nông nghiệp.
Nguồn nước và chế độ thủy văn :
Đức Huệ nằm ở vùng dự án thủy lợi kẹp giữa hai sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây; song nguồn nước sử dụng cho sản xuất nông nghiệp và đời sống, . . . chủ yếu từ sông Vàm Cỏ Đông phát nguyên từ vùng đồi thấp thuộc tỉnh Kam Pong Cham của Campuchia, chảy len lỏi và uốn lượn qua các khe đồi bát úp rồi đổ vào lãnh thổ Việt Nam tại Gò Dầu Hạ (tỉnh Tây Ninh), tiếp đó chảy qua Long An đổ ra biển Đông tại cửa Soài Rạp. Dòng chính dài 260 km, phần sông Vàm Cỏ Đông là ranh giới phía Đông Bắc của Đức Huệ dài 32 km, đây là đoạn trung lưu (Hiệp Hòa), sông rộng bình quân 200m, sâu -17m, lưu lượng mùa kiệt tại Gò Dầu hạ 12,9 m3/s.
Khi chưa xây dựng hồ Dầu Tiếng, Vàm Cỏ Đông là ''dòng sông chết'' về mùa khô, mặn 4g/l qua khỏi cửa Rạch Tràm (Đức Huệ) hàng chục km, nên lúc đó Đức Huệ chỉ là vùng đất hoang hoặc có một số diện tích trồng một vụ lúa mùa mưa.
Hiện nay, nhờ có hồ Dầu Tiếng xả nước qua kênh Tây và nước hồi quy nên mặn 4g/l đã lùi xuống Xuân Khánh, phần sông Vàm Cỏ Đông thuộc Đức Huệ đã được ngọt hóa quanh năm. Bằng hệ thống các kênh nối trực tiếp với sông Vàm Cỏ Đông kéo nước ngọt vào nội đồng (hướng Đông - Tây) đã tạo động lực quan trọng và có ý nghĩa gần như quyết định thúc đẩy phát triển sản xuất và cải thiện đời sống cho nhân dân ở huyện Đức Huệ.
Trên bề mặt đất huyện Đức Huệ có 62,86% diện tích được phủ bởi lớp trầm tích Holocene (QIV), còn gọi là phù sa mới; còn lại 36,02% phủ bằng trầm tích cổ Pleistocene (QI - QIII). Trong trầm tích Holocene, nước ngầm bị nhiễm phèn, độ sâu xuất hiện tầng nước ngầm từ 120 - 200m, có độ khoáng hóa cao (> 3g/l). Nước ngầm ở trầm tích cổ có hàm lượng tổng số độ khoáng hóa : 1 - 3 g/l.
Quá trình thực hiện chương trình nước sạch nông thôn và khoan khai thác nước ngầm của UNICEF thường phải khoan sâu > 150m, nước giếng khoan muốn sử dụng an toàn phải qua thiết bị lọc.
Như vậy, Đức Huệ là nơi nghèo nước ngầm, nước có độ khoáng hóa cao, đầu tư khoan khai thác (giếng) phải đủ độ sâu và bắt buộc phải có thiết bị lọc nước mới sử dụng cho sinh hoạt được, nên cần đầu tư lớn và đồng bộ.
Chế độ thủy văn:
Sông rạch huyện Đức Huệ chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều không đều của Biển Đông, thời gian một ngày triều là 24giờ 50 phút, có hai đỉnh và hai chân triều, song biến động không đều theo tháng. Đỉnh triều lớn nhất vào tháng 12, nhỏ nhất vào tháng 4, tháng 5; biên độ triều trung bình mùa kiệt 0,75 - 0,85m, mùa lũ 0,45 - 0,60m. Do vậy, vào mùa khô có thể lợi dụng thủy triều để tưới nước hoàn toàn tự chảy; song do biên độ triều không lớn và cường độ triều không đủ mạnh như ngoài dòng chính nên khả năng đẩy nước từ sông Vàm Cỏ Đông vào sâu trong nội đồng bị yếu dần.
Lũ lụt ở Đức Huệ do ảnh hưởng của hai nguồn sinh lũ là: lũ từ thượng nguồn sông Vàm Cỏ Đông và lũ từ sông MêKông chuyển qua sông Vàm Cỏ Tây gây ra. Lũ đến muộn (tháng 9, 10), độ sâu ngập dao động từ 0,7 - 1,5m, nơi ngập sâu nhất là các xã phía Nam như Bình Hòa Hưng, Bình Thành, Bình Hòa Nam.
Nói chung, lũ có tác động ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống, nhưng không ác liệt như ở các huyện đầu nguồn (Vĩnh Hưng, Tân Hưng,. . .). Song, lũ lịch sử năm 2000 cũng gây tác động không nhỏ đến sản xuất và đời sống (làm chết 9 người, 4.767 ha lúa bị ngập, trong đó bị mất trắng : 2.612 ha, chết 250.000 cây lâm nghiệp, 307 phòng học bị ngập, 166 km đường bị ngập, cầu bị hư hỏng, cuốn trôi : 39 chiếc, 5.520 hộ có nguy cơ bị đói,. . .) Chi tiết xem phụ lục

3. Tài nguyên:
Đất: Theo kết quả điều tra xây dựng bản đồ đất tỷ lệ 1/25.000 năm 1998 của Phân viện Quy hoạch - TKNN cho thấy: Toàn huyện có 3 nhóm đất với 9 đơn vị chú giải bản đồ đất; trong đó, nhóm đất phù sa nhiễm phèn 3.063 ha (chiếm 7,11% DTTN), nhóm đất xám có 15.523 ha (chiếm 36,02% DTTN) và nhóm đất phèn 24.024 ha (chiếm 55,75% DTTN). Như vậy, 100% diện tích đất của huyện Đức Huệ thuộc loại ''đất có vấn đề'', do đó sử dụng vào sản xuất nông nghiệp được xem là một hạn chế lớn nhất trong phát triển kinh tế - xã hội của huyện Đức Huệ.
Đất huyện Đức Huệ xếp ở cấp ít thích nghi hoặc phải cải tạo mới thích nghi với 2 vụ lúa, mía, đậu phộng, đậu đỗ nên cây sinh trưởng phát triển cho năng suất thấp hơn các vùng đất tốt (đất phù sa). Vì vậy, đây cũng là một hạn chế trong sản xuất nông nghiệp.
Địa chất: Đất đai của huyện Đức Huệ hình thành từ hai loại trầm tích: Trầm tích phù sa non trẻ (Holocene) và trầm tích phù sa cổ (Pleistocene); trong đó đa số là trầm tích Holocene có chứa vật liệu sinh phèn.
- Trầm tích Holocene bao phủ trên 60% DTTN của huyện, nó phủ trùm lên trầm tích phù sa cổ.
- Mẫu chất phù sa cổ bao trùm gần 36% DTTN.
- Trầm tích không phân chia khoảng 4% DTTN.
Do vậy, khi xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng cần tính toán đầu tư đảm bảo độ ổn định bền vững.
Tài nguyên rừng: Năm 1995 diện tích rừng chỉ có 676 ha, trong đó tràm cừ 510 ha; đến năm 2000 diện tích rừng tăng lên 5.931 ha (tỷ lệ che phủ 14,69%) kể cả cây lâu năm, trong đó bạch đàn 2.535 ha, tràm cừ 2.437 ha, tràm bông vàng 959 ha. Rừng mới trồng từ năm 1997 - 1999 nên trữ lượng không lớn.
Nguồn tài nguyên động vật dưới tán rừng đã dần được phục hồi, đây là thành quả đáng ghi nhận của chương trình 327/CT, 773/TTg và 661, đã góp phần sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên cũng như khôi phục hệ sinh thái vốn có của vùng đất phèn.
Tài nguyên thủy sản: Qua điều tra của Viện Nghiên cứu Thủy sản II, có nhận xét:
- Các thủy vực ở huyện Đức Huệ có những nhóm loài đặc trưng như : tảo lục, tảo bánh xe, côn trùng thủy sinh, nhóm tôm cá nước ngọt.
- Thủy sinh vật có đến 334 loài, gồm : 181 loài tảo, 93 loài động vật nổi, 60 loài động vật đáy.
- Trên sông Vàm Cỏ Đông có 55 loài cá, 9 loài tôm; trong đó, cá đồng và tôm càng xanh có giá trị kinh tế, song sản lượng không lớn.
Ngoài ra, do môi trường nước nội đồng ngày càng được ngọt hóa, độ chua và thời gian ảnh hưởng chua phèn giảm, tạo điều kiện để các loài thủy sản về cư trú và phát triển, mở ra hướng đi trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng - vật nuôi.
Tài nguyên khoáng sản: Theo các tài liệu điều tra địa chất thổ nhưỡng, trên địa bàn huyện Đức Huệ nghèo về khoáng sản.
- Hiện tại ở một số lung phèn có than bùn, tập trung nhiều ở xã Mỹ Quý Tây, trấp Mốp Xanh, lớp than bùn dày 0,75 - 1,50m. Thành phần than bùn có độ tro thấp, mùn cao, lượng khoáng cao, có thể sử dụng làm phân bón hoặc chất đốt; song cần tính toán kỹ nếu muốn khai thác, bởi khai thác than bùn sẽ tạo điều kiện gia tăng oxyt hóa phèn, giảm pH, tăng độc tố trong dung dịch đất.
- Cát trên sông Vàm Cỏ Đông từ cửa Rạch Tràm đến đầu kênh Trà Cú Thượng có trữ lượng khoảng 1 triệu m3, song khai thác phải quản lý chặt chẽ, tránh làm thay đổi dòng chảy và hủy hoại môi trường.

4. Dân số và lao động:
Dân số trung bình năm 2000 của huyện Đức Huệ là 62.567 người, mật độ dân số 145 người/km2, chỉ bằng 50% mức trung bình mật độ dân số của tỉnh Long An (294 người/km2) nên Đức Huệ được xem là “vùng đất rộng người thưa”; đặc biệt dân số khu vực thành thị chỉ có 5.606 người, chiếm 8,96% tổng dân số (chỉ bằng 1/3 tỷ lệ dân số thành thị cả nước), dân số nông thôn 56.912 người (chiếm 90,9%), tốc độ tăng dân số bình quân 1,36%/năm. Điểm đáng lưu ý là phần lớn cư dân đến đây định cư sau năm 1975 (dân kinh tế mới), cần cù chịu khó lao động, song thiếu kinh nghiệm, trình độ văn hóa và chuyên môn thấp.
Lao động: Tổng lao động toàn huyện năm 2000 là 31.910 người; trong đó, lao động nông - lâm nghiệp 28.086 người chiếm 88,02%, lao động công nghiệp - TTCN 325 người chiếm 1,02% và lao động thương mại - dịch vụ 1.765 người chiếm 5,53%, lao động khác 5.43%. Như vậy, nguồn nhân lực tập trung chủ yếu cho sản xuất nông - lâm nghiệp, việc chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm và có phần chưa được hợp lý.
Nguồn nhân lực ở huyện Đức Huệ có chất lượng thấp, đây là một nguyên nhân ảnh hưởng đến phát triển kinh tế vì nhân lực là nhân tố quan trọng hàng đầu của lực lượng sản xuất. Số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật và quản lý trong các ngành là 713 người (chiếm 2,23% lao động xã hội); trong đó, trình độ đại học 69 người, cao đẳng 136 người, trung cấp 461 người, dưới trung cấp 47 người. Nếu kể cả trình độ sơ cấp và công nhân kỹ thuật ước khoảng 3% lao động thì tổng cộng số lao động được đào tạo là 5,25%, song lại chủ yếu tập trung ở khu vực quản lý nhà nước, giáo dục, y tế. Do vậy, đây là một tồn tại lớn của huyện Đức Huệ.
Để phát triển kinh tế - xã hội, nhất thiết phải đào tạo, nâng cao mặt bằng dân trí, trình độ chuyên môn cho người lao động, để họ có khả năng tiếp thu và ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất (với chỉ tiêu là 15 - 20% số lao động được đào tạo).

5. Đánh giá chung:
Lợi thế:
- Đức Huệ là huyện biên giới giáp Campuchia (có đường ranh giới dài 25 km), từ cửa khẩu Tho Mo về trung tâm vùng PTKTTĐPN ngắn nhất (cách TP. Hồ Chí Minh 65 km), nên có lợi thế phát triển dịch vụ thương mại xuất nhập khẩu qua biên giới (kinh tế cửa khẩu) . Đồng thời, Đức Huệ còn là một cửa ngõ thông thương giữa Đông Nam bộ và ĐBSCL; hơn nữa, huyện Đức Huệ nằm ở ngoại vi địa bàn KTTĐ của tỉnh, là vành đai xanh với các nông sản hàng hóa có thế mạnh như : lúa - gạo, mía đường, đậu đỗ, thịt bò, heo, vịt có thể tiêu thụ thuận lợi ở vùng Đông Nam bộ, một thị trường lớn nhất Việt Nam.
- Đức Huệ là huyện có nguồn nước ngọt dồi dào với hệ thống kênh mương thủy lợi tương đối hoàn chỉnh, đặc biệt là hệ thống kênh tạo nguồn, bảo đảm đủ nguồn nước ngọt cho sản xuất.
- Đất đai có khả năng mở rộng sản xuất nông - lâm nghiệp lên đến: 6.513 ha, đất lúa một vụ còn 5.113 ha nên còn có thể mở rộng diện tích và tăng vụ.
- Trong những năm qua, các ngành thủy lợi, giao thông, điện đã đầu tư tạo cơ sở vật chất ban đầu, với dự báo trong tương lai gần đường vành đai biến giới N1 được đầu tư xây dựng, kết nối với cơ sở hạ tầng khác, góp phần nâng cao mức sống cho nhân dân trong huyện. Hệ thống giao thông đường thủy nội và ngoài huyện có nhiều thuận lợi, giá vận chuyển thấp, cũng được xem là một lợi thế trong phát triển kinh tế - xã hội huyện Đức Huệ.
- Trong quá trình phát triển sản xuất thông qua ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất ngành nông nghiệp, đã xây dựng thành công các mô hình sản xuất đạt hiệu quả cao cả về kinh tế - xã hội - môi trường. Do vậy, đây là tiền đề quan trọng cho sản xuất hàng hóa tiếp tục phát triển một cách bền vững.
Hạn chế:
- Đất đai của huyện Đức Huệ 100% diện tích là ''đất có vấn đề'' lại phân bố trên các địa hình khá phức tạp (giồng cao xen kẽ với lòng sông cổ), phù sa cổ và trẻ phủ lẫn nhau. Đây được xem là hạn chế lớn trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh tế, đầu tư cải tạo đất tốn kém, năng suất cây trồng thấp, giá thành cao, sức cạnh tranh kém trên thị trường.
- Cơ sở hạ tầng còn thiếu và chưa đồng bộ, đặc biệt là giao thông đường bộ, công trình kiểm soát lũ và cơ sở vật chất phục vụ dân sinh (trường học, y tế, chợ, . . .) còn thiếu nghiêm trọng, thông tin liên lạc còn yếu,. . . cộng với hàng năm chịu ảnh hưởng của lũ lụt và thiên tai, đã và đang là những cản ngại trong quá trình phát triển kinh tế, v.v . . .
- Đại bộ phận dân cư của huyện Đức Huệ là dân kinh tế mới, đến định cư sau năm 1975, có đời sống khó khăn, thu nhập thấp; chất lượng lao động thấp (hơn 95% chưa được đào tạo).
- Công nghiệp - TTCN và thương mại - dịch vụ chưa phát triển, nên không hỗ trợ tích cực cho nông nghiệp phát triển; nền kinh tế của huyện Đức Huệ ''thuần nông'', thu nhập của nhân dân chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp (>80%), trong khi lũ lụt, thiên tai diễn ra liên tiếp, cộng với biến động bất lợi về giá cả nông sản, làm cho đời sống người dân càng khó khăn, khả năng tích lũy tái đầu tư cho sản xuất hạn chế.
- Tình hình buôn lậu và an ninh trên tuyến biên giới Campuchia đang còn diễn biến phức tạp, do đó huyện Đức Huệ phải gắn phát triển kinh tế với an ninh quốc phòng. Mặt khác, do đường biên giới giáp Campuchia dài đến 25 km, nạn buôn lậu hầu như không giảm sẽ kéo theo một số lượng không nhỏ lao động của huyện tham gia, làm trễ nải sản xuất.
- Khả năng thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài vào để phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp, nông thôn nói riêng ở huyện Đức Huệ có hạn chế bởi sức hút quá lớn ở địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam, cũng như khu vực dọc quốc lộ 1 tỉnh Long An, cho nên Đức Huệ muốn phát triển kinh tế phải dựa vào chính nội lực mà tiềm năng này của huyện lại rất có hạn.
Qua nghiên cứu, phân tích các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Đức Huệ cho thấy thuận lợi tương đối ít và còn dưới dạng tiềm năng, muốn khai thác ngoài việc huy động tối đa nội lực, rất cần có những nguồn ngoại lực từ bên ngoài hỗ trợ đầu tư. Khó khăn, hạn chế còn nhiều nên việc định hướng phát triển kinh tế cho giai đoạn 2001 - 2010 là điều không đơn giản, đòi hỏi phải được luận chứng chặt chẽ nhằm xác lập các nguồn lực mới, khắc phục khó khăn, chuyển hóa tiềm năng thành hiện thực là : Phát triển kinh tế toàn diện - bền vững, giữ vững an ninh chính trị, xây dựng cuộc sống ấm no và hạnh phúc cho nhân dân.

6. Quan điểm và mục tiêu phát triển:
Quy hoạch kinh tế - xã hội huyện Đức Huệ cần được xây dựng trên các quan điểm định hướng mang đầy đủ cơ sở khoa học và thực tiễn, luận cứ cho được những mục tiêu chiến lược và cụ thể trên cơ sở hệ thống các giải pháp đồng bộ, làm tiền đề cho công tác quản lý đầu tư phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng, thực hiện thắng lợi nghị quyết Huyện Đảng bộ Đức Huệ và Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam toàn quốc lần thứ IX đề ra.
Quan điểm định hướng: Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội của huyện Đức Huệ là chiến lược phát triển kinh tế - xã hội toàn diện, nhằm khai thác sử dụng hiệu quả mọi tiềm năng nội lực của huyện và tận dụng hết những thuận lợi, điều kiện từ bên ngoài (ngoại lực), đạt các mục tiêu tăng trưởng kinh tế một cách bền vững, nâng cao mức sống cho nhân dân, xây dựng nông thôn mới và từng bước đô thị hóa hóa nông thôn.
- Phát triển kinh tế toàn diện, sản xuất gắn với thị trường tiêu thụ. Phát huy và sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng và nguồn lực của huyện, tranh thủ nguồn hỗ trợ của tỉnh, trung ương và các tổ chức quốc tế.
- Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng và phát triển kinh tế hợp tác trên tinh thần tự nguyện của người lao động.
- Kết hợp hài hòa giữa việc khai thác nội lực với tranh thủ sự giúp đỡ đầu tư từ bên ngoài, có trọng điểm, tập trung vào những ngành, những địa bàn hội đủ các yếu tố phát triển, nhất là nông nghiệp chất lượng cao, công nghiệp chế biến và kinh tế cửa khẩu. Khai thác hợp lý các lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên đất, nguồn nước, mở rộng sản xuất, lấy hiệu quả kinh tế và chất lượng cuộc sống làm tiêu chuẩn phát triển.
- Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa các ngành sản xuất, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng ổn định và bền vững. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực và hiệu quả, nhất là trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn, thương mại và dịch vụ, từng bước đầu tư công nghiệp, trước hết là công nghiệp chế biến nông lâm sản và cơ khí sửa chữa, vật liệu xây dựng.
- Phát triển nguồn nhân lực, nâng cao mặt bằng dân trí, đảm bảo quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo tinh thần Nghị quyết 18 của Tỉnh ủy Long An.
- Mở rộng sản xuất đi đôi với bảo vệ gìn giữ môi trường sinh thái, ngăn chặn mọi nguy cơ gây ô nhiễm.
- Phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ với an ninh quốc phòng, giữ vững và củng cố tuyến phòng thủ biên giới, xứng đáng với vị trí tiền tiêu an ninh quốc phòng của tỉnh Long An và cả nước.

7. Mục tiêu chung:
- Xây dựng Đức Huệ trở thành huyện có kinh tế phát triển, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, đảm bảo vững chắc về an ninh quốc phòng, gia tăng phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở chuyển dịch hợp lý, hiệu quả cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh dịch vụ và công nghiệp, từng bước công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
- Nhanh chóng thoát khỏi nền kinh tế thuần nông, độc canh; sớm tạo nên sự phát triển cân đối, toàn diện, phát huy các thế mạnh về nông - lâm nghiệp, công nghiệp chế biến và dịch vụ - thương mại, xây dựng Đức Huệ thành huyện vững mạnh ở vị trí tiền tiêu trên tuyến biên giới phía Tây Nam tổ quốc.

8. Mục tiêu cụ thể:<span style=\'color:purple\'>
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn: 2001 - 2010 là 10,53%/năm, trong đó giai đoạn 2001 - 2005 là 10,93%/năm, giai đoạn 2006 - 2010 là 10,12%/năm.
- Cơ cấu kinh tế tăng nhanh tỷ trọng dịch vụ và công nghiệp để cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng Nông lâm nghiệp – Thương mại dịch vụ - Công nghiệp - TTCN. Cụ thể đến năm 2010: Nông lâm nghiệp chiếm 59,63%, công nghiệp - xây dựng chiếm 7,40%, thương mại - dịch vụ chiếm 32,97%.
- GDP (theo giá thực tế) bình quân đầu người năm 2005 là 7,0 triệu đồng, tương đương 466 USD và đến năm 2010 là 12,8 triệu đồng, tương đương 850 USD.
- Tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách năm 2005 là 3,0%/năm và năm 2010 là 4,0%/năm.
- Giảm tỷ lệ tăng dân số xuống 1,36% vào năm 2005 và còn 1,2% năm 2010.
- Năm 2005 giảm tỷ lệ hộ nghèo còn 10 - 12% và năm 2010 còn 5 - 6%.
- Phổ cập tiểu học theo độ tuổi vào năm 2005, phổ cập phổ thông trung học theo chuẩn quốc gia vào năm 2006.
- Tỷ lệ hộ sử dụng điện năm 2005 là 85,0% và năm 2010 là 95,0%.
- Tỷ lệ hộ sử dụng nước sạch năm 2005 là 60,0% (khu vực đô thị 100,0%) và năm 2010 là 95,0%.

LeGiang
01-01-1970, 07:00 AM
HUYỆN MỘC HÓA

LeGiang
01-01-1970, 07:00 AM
HUYỆN TÂN HƯNG

LeGiang
01-01-1970, 07:00 AM
HUYỆN TÂN THẠNH</span>

Địa chỉ: Khu vực 1 thị trấn Tân Thạnh huyện Tân Thạnh
Điện thoại: 844139, Fax: 844431

1. Vị trí địa lý kinh tế :
Huyện Tân Thạnh nằm ở phía Bắc của tỉnh Long An với diện tích tự nhiên 42.578 ha, cách thị xã Tân An 45 Km về phía Bắc theo quốc lộ 62. Ranh giới hành chính huyện Tân Thạnh cụ thể như sau: phía Bắc giáp huyện Mộc Hóa, phía Đông giáp huyện Thạnh Hóa, phía Tây giáp tỉnh Đồng Tháp, phía Nam giáp tỉnh Tiền Giang.
Tân Thạnh nằm ở vùng sâu của Đồng Tháp Mười, hàng năm chịu ảnh hưởng nặng nề của lũ lụt. Sự hình thành và phát triển kinh tế - xã hội của Tân Thạnh gắn liền với quá trình khai thác đất hoang hóa, di dân xây dựng vùng kinh tế mới ở Đồng Tháp Mười. Trong phân vùng địa lý kinh tế của tỉnh Long An, Tân Thạnh thuộc tiểu vùng 3 (gồm Vĩnh Hưng, Tân Hưng , Mộc Hóa, Tân Thạnh ). Phương hướng phát triển kinh tế chủ yếu là Nông - lâm nghiệp, mà hàng đầu là sản xuất lúa hàng hóa.
Xét về vị trí địa lý và quá trình khai thác tài nguyên phát triển kinh tế xã hội cho thấy lợi thế cơ bản của Tân Thạnh là :
+ Tân Thạnh một huyện thuộc vùng Đồng Tháp Mười, được hưởng lợi nguồn nước ngọt từ sông Tiền qua trục chính là kênh Dương Văn Dương phục vụ cho phát triển sản xuất nông nghiệp và đời sống của nhân dân.
+ Thông qua chương trình khai thác vùng Đồng Tháp Mười của Chính phủ nên cơ sở hạ tầng từng bước được cải thiện, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao đáng kể.
+ Tân Thạnh có quốc lộ 62 chạy qua, trong tương lai gần QLN2 sẽ được đầu tư xây dựng, là các trục giao thông vô cùng quan trọng trong việc xây dựng kinh tế kết hợp với củng cố quốc phòng, mặt khác hệ thống giao thông thủy rất thuận lợi cho việc vận chuyển và giao lưu hàng hóa với thị xã Tân An và TP Hồ Chí Minh.
Ngoài những lợi thế cơ bản nêu trên, Tân Thạnh còn có một số hạn chế :
+ Bị ảnh hưởng của lũ lụt thường niên, dễ gây rủi ro cho sản xuất, hư hỏng cơ sở hạ tầng hạn chế tốc độ phát triển kinh tế - xã hội.
+ Đất đai của Tân Thạnh chủ yếu là đất phèn ở địa hình trũng có nồng độ các độc tố cao (SO42-, Al3+, Fe3+ ) dễ gây ảnh hưởng xấu cho cây trồng trong điều kiện chưa hoàn chỉnh thủy lợi, đồng thời ít có điều kiện để chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đa dạng hóa sản phẩm để phá thế độc canh cây lúa.
+ Cơ sở hạ tầng nông thôn như : Giao thông đường bộ, nước sinh hoạt, trạm y tế, điện, trường học, các công trình phúc lợi công cộng chưa phát triển, xa thị trường tiêu thụ nên hạn chế lớn đến việc phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn huyện.
Để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội cần thấy hết các lợi thế để khai thác, đồng thời khắc phục và giảm thiểu ảnh hưởng của các yếu tố hạn chế, tạo động lực phát triển nền kinh tế một cách ổn định và bền vững.

2. Đặc điểm tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên :
Khí hậu huyện Tân Thạnh mang tính chất đặc trưng nhiệt đới gió mùa với nền nhiệt cao đều quanh năm, ánh sáng dồi dào, lượng mưa khá lớn và phân bố theo mùa. Nhiệt độ bình quân năm là 27,2oC, tháng 5 là tháng nóng nhất với nhiệt độ trung bình 29,3oC và tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất 25oC. Biên độ nhiệt trong năm dao động khoảng 4,3oC và biên độ nhiệt ngày và đêm dao động cao (từ 8oC đến 10oC). Đây là điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp theo hướng thâm canh, đặc biệt là cây lúa, ngô, rau đậu thực phẩm. Lượng mưa trung bình năm khá lớn (1.447,7 mm/năm) và phân bố theo mùa rõ rệt. Mùa mưa trùng với mùa lũ gây ngập úng, cản trở quá trình sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
Nguồn nước mặt : Tân Thạnh được hưởng lợi nguồn nước ngọt sông Tiền qua kênh trục chính Dương Văn Dương, hệ thống kênh cấp I cấp II và kênh mương thủy lợi nội đồng.
Nguồn nước ngầm: Đặc điểm nổi bật về nguồn nước ngầm trong khu vực huyện Tân Thạnh là xuất hiện sâu, giá thành khai thác cao, nên ít được khai thác. Trong khu vực huyện Tân Thạnh nước mạch nông xuất hiện ở độ sâu 30 - 40 mét, nhưng do ảnh hưởng của phèn nên chất lượng không tốt, khả năng sử dụng cho sinh hoạt bị hạn chế. Hơn nữa, tại Tân Thạnh nước ngầm có hàm lượng tổng độ khoáng hóa rất thấp (1-3g/l) và PH<4, nên việc sử dụng nước ngầm ở độ sâu <40 m để tưới hỗ trợ cho nông nghiệp và sinh hoạt rất hạn chế. Nước ngầm có khả năng khai thác ở độ sâu 260 - 290 m, trữ lượng 400m3 ngày đêm/giếng, lưu lượng nước 05 lít/s và chất lượng tốt.
Hiện nay, nước sinh hoạt của nhân dân trong huyện hầu hết dùng nước mưa và nước kênh rạch qua lọc lắng. Nước ngầm do giá thành khai thác cao nên mới có một số điểm tập trung do nhà nước đầu tư, một số xã vùng sâu đã có sự phối hợp tốt phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, xã hội hóa cấp nước sinh hoạt.
Chế độ thủy văn :
+ Ngập lũ là quy luật thường niên của ĐBSCL, trong đó Tân Thạnh được xếp vào một trong những huyện chịu ảnh hưởng nặng nhất. Lũ lớn đang có xu thế rút ngắn chu kỳ từ 12 năm xuống còn 6 năm và 3 năm (1961, 1978, 1984, 1991, 1994, 1996, 2000) trong đó lũ lịch sử năm 2000 đã gây thiệt hại rất nặng nề cho Tân Thạnh. Tuy nhiên lũ mang đến lượng phù sa đáng kể tăng thêm màu mở cho ruộng đồng, thau chua rữa phèn, tăng nguồn lợi thủy sản, vệ sinh môi trường.
+ Ảnh hưởng của phèn - chua: Theo dõi diễn biến của phèn - chua trên các sông, kênh rạch vùng ĐTM cho thấy Tân Thạnh bị ảnh hưởng chua phèn khá nặng. Thời điểm nước trên kênh rạch bị chua là khoảng 10 ngày sau khi bắt đầu mưa, vấn đề chua có thể giải quyết nhanh chóng khi đầu tư hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi.
+ Ảnh hưởng mặn: Mặn 4g/l trên sông Vàm Cỏ Tây bình quân nhiều năm chỉ ngang hoặc qua Tuyên Nhơn 4 - 5 Km về phía thượng lưu. Song , vào các năm 1992, 1993 mặn đã ảnh hưởng sâu hơn và nồng độ mặn cũng cao hơn bình quân nhiều năm. Do Tân Thạnh ở sâu trong nội đồng, xa sông Vàm Cỏ Tây với độ mặn nhỏ hơn 4g/lít nên không gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp.

3. Tài nguyên:
Đất : Theo kết quả điều tra xây dựng bản đồ đất tỷ lệ 1/100.000 vùng ĐTM năm 1994 của Phân viện Quy hoạch - TKNN cho thấy toàn huyện có 3 nhóm đất với 13 đơn vị chú giải bản đồ đất; trong đó, nhóm đất phù sa có 414 ha (chiếm 0,97% DTTN) và nhóm đất phèn 35.996 ha (chiếm 84,54% DTTN), nhóm đất xáo trộn 6.168 ha chiếm 14,49% DTTN. Như vậy, hầu hết diện tích đất của huyện Tân Thạnh thuộc loại “đất có vấn đề”, do đó sử dụng vào sản xuất nông nghiệp được xem là một hạn chế lớn nhất của huyện Tân Thạnh. +) Nhóm đất phèn : Nhóm đất phèn có diện tích :35.996 ha, chiếm 84,55% DTTN. Đất phèn có trị số pH thấp và hàm lượng SO4-- cao ( 0,15 - 0,25%), đặc biệt là các ion Fe++ và Al+++ dễ gây độc hại cho cây trồng. Vấn đề sử dụng đất phèn trong sản xuất nông nghiệp ở Đồng Tháp Mười nói chung và huyện Tân Thạnh nói riêng phụ thuộc chặt chẽ vào khả năng cung cấp nước ngọt trong mùa khô. Đất phèn phân bố ở hầu hết các xã trong huyện, đất có hàm lượng mùn cao, nếu giải quyết tốt vấn đề thủy lợi thì canh tác lúa đạt năng suất cao.
Tài nguyên rừng: Năm 1995 có 5.540 ha rừng, trong đó hầu hết là tràm cừ ; đến năm 2001 diện tích rừng tăng lên 6.920 ha (tỷ lệ che phủ 20,75%) kể cả cây lâu năm và vườn tạp, phần lớn rừng trồng từ trước năm 1995 nên trữ lượng khá.
Nguồn tài nguyên động vật dưới tán rừng đã dần được phục hồi, đây là thành quả đáng ghi nhận của chương trình 773/TTg và 661, đã góp phần sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên cũng như khôi phục hệ sinh thái vốn có của vùng đất phèn.
Tài nguyên khoáng sản : Theo các tài liệu điều tra địa chất thổ nhưỡng, trên địa bàn huyện Tân Thạnh, chưa cho thấy có loại khoáng sản đặc trưng nào.

4. Dân số và lao động :
Dân số trung bình năm 1995 là 68.016 người đến năm 2001 là 76.202 người, mật độ dân số 179 người/km2, chỉ bằng 60,88% mức trung bình mật độ dân số của tỉnh Long An (294 người/km2) nên Tân Thạnh được xem là huyện có mật độ dân số cao trung bình của tỉnh. Dân số thành thị có 5770 người(chiếm 7,57% dân số), dân số nông thôn 70.432 người (chiếm 92,43%), tốc độ tăng dân số bình quân 1,91%/năm.
Mật độ dân đông nhất là thị trấn Tân Thạnh 780 người/km2, gấp 10,83 lần so với nơi có mật độ dân số thấp nhất là xã Nhơn Hòa 72 người/km2. Mật độ dân số bình quân 179 người/km2.
Tổng số lao động toàn huyện năm 2001 là 39.683 người; trong đó, nông - lâm nghiệp 33.960 người (chiếm 85,6%), công nghiệp - TTCN 643 người (chiếm 1,6%) và thương mại - dịch vụ 3.265 người (chiếm 8,2%), lao động khác 1.815 người chiếm 4,6%. Như vậy, nguồn nhân lực tập trung chủ yếu cho nông - lâm nghiệp, việc chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành diễn ra chậm.
Nguồn nhân lực ở huyện Tân Thạnh có chất lượng thấp, đây là một nguyên nhân ảnh hưởng đến phát triển kinh tế vì nhân lực là nhân tố quan trọng hàng đầu của lực lượng sản xuất. Số lao động có chuyên môn kỹ thuật và quản lý trong các ngành là 567 người (chiếm 1,42% lao động xã hội); trong đó, đại học: 195 người, cao đẳng 245 người, trung cấp 127 người. Nếu kể cả trình độ sơ cấp và công nhân kỹ thuật ước khoảng 3.2% thì tổng số lao động được đào tạo là 4,62%, song lại tập trung ở khu vực quản lý nhà nước, giáo dục, y tế. Do vậy, đây là một tồn tại lớn của huyện Tân Thạnh.
Để phát triển kinh tế - xã hội, nhất thiết phải đào tạo, nâng cao mặt bằng dân trí, trình độ chuyên môn cho người lao động, để họ có khả năng tiếp thu và ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất.

5. Đánh giá chung:
Những lợi thế :
- Tân Thạnh được hưởng lợi nguồn nước ngọt từ sông Tiền qua kênh Dương Văn Dương phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và đời sống của nhân dân, hàng năm được bồi đắp lượng phù sa đáng kể làm màu mỡ đất đai.
- Nằm trong chương trình khai thác vùng Đồng Tháp Mười của chính phủ nên cơ sở hạ tầng ngày càng được cải thiện, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao đáng kể.
- Tân Thạnh có tuyến quốc lộ 62 chạy qua và dự báo trong tương lai gần đường N2 được đầu tư xây dựng, tạo nên trục giao thông vô cùng quan trọng trong việc xây dựng kinh tế kết hợp với củng cố quốc phòng, mặt khác hệ thống giao thông thủy rất thuận lợi cho việc vận chuyển và giao lưu hàng hóa với thị xã Tân An và TP. Hồ Chí Minh.
- Nguồn nhân lực dồi dào, có truyền thống cách mạng, tự lực tự cường vượt qua mọi khó khăn thử thách, thực hiện tốt các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội.
- Trong quá trình phát triển, thông qua ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, đã xây dựng thành công một số mô hình sản xuất đạt hiệu quả cả về kinh tế - xã hội - môi trường. Do vậy, đây là tiền đề quan trọng cho kinh tế hàng hóa tiếp tục phát triển một cách bền vững.
Những hạn chế :
- Đất đai của huyện Tân Thạnh có chất lượng thấp (đất phèn nhiều độc tố) lại phân bố trên các địa hình thấp trũng có nhiều chia cắt bởi kênh rạch. Đây được xem là hạn chế lớn trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh tế, đầu tư cải tạo đất tốn kém, năng suất cây trồng thấp, giá thành cao, nên sản phẩm có sức cạnh tranh kém trên thị trường.
- Cơ sở hạ tầng còn thiếu và chưa đồng bộ, đặc biệt là giao thông đường bộ, công trình kiểm soát lũ và cơ sở vật chất phục vụ dân sinh (trường học, y tế, chợ,. . .) còn thiếu nghiêm trọng, thiếu thông tin thị trường,. . . cộng với hàng năm chịu ảnh hưởng của lũ lụt và thiên tai, đã và đang là những cản ngại trong quá trình phát triển kinh tế, v.v. . .
- Công nghiệp - TTCN và Thương mại - dịch vụ chưa phát triển, chưa hỗ trợ cho nông nghiệp phát triển; kinh tế của huyện Tân Thạnh ''thuần nông'' độc canh lúa, thu nhập chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp (>80%), trong khi lũ lụt, thiên tai diễn ra liên tiếp, giá cả nông sản hàng hóa còn bấp bênh, làm cho đời sống người dân càng khó khăn, khả năng tích lũy tái đầu tư cho sản xuất yếu. Năng lực quản lý điều hành của hệ thống quản lý nhà nước còn hạn chế.
- Phần lớn dân cư của huyện Tân Thạnh có đời sống khó khăn, thu nhập thấp; lao động chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ cao ( khoảng 95%).
- Khả năng thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài vào để phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp, nông thôn nói riêng ở huyện Tân Thạnh có hạn chế cho nên muốn phát triển kinh tế phải dựa vào chính nội lực mà tiềm năng này của huyện lại rất có hạn.

6. Quan điểm định hướng phát triển của huyện Tân Thạnh:
nhằm khai thác sử dụng hiệu quả mọi tiềm năng nội lực của huyện và tận dụng hết những thuận lợi, điều kiện từ bên ngoài (ngoại lực), đạt các mục tiêu tăng trưởng kinh tế một cách bền vững.
- Khai thác hợp lý các lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên đất, nguồn nước, mở rộng sản xuất, lấy hiệu quả kinh tế và chất lượng cuộc sống làm tiêu chuẩn phát triển. Phát triển sản xuất gắn với thị trường tiêu thụ, chú trọng vào những ngành, những địa bàn hội đủ các yếu tố phát triển, nhất là nông nghiệp chất lượng cao, công nghiệp chế biến.
- Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn trên địa bàn huyện, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững, từng bước hội nhập kinh tế quốc tế.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực và hiệu quả, nhất là trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn, thương mại và dịch vụ, từng bước phát triển công nghiệp, trước hết là công nghiệp chế biến nông sản .
- Phát triển nguồn nhân lực, nâng cao mặt bằng dân trí, đảm bảo quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo tinh thần Nghị quyết 18 của Tỉnh ủy Long An.
- Mở rộng sản xuất đi đôi với bảo vệ và gìn giữ môi trường sinh thái, ngăn chặn mọi nguy cơ gây ô nhiễm, bảo đảm tính bền vững cho nền kinh tế. Phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ với quốc phòng an ninh, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội.

7. Mục tiêu chung :
- Xây dựng Tân Thạnh trở thành huyện có kinh tế phát triển, xã hội công bằng, văn minh, đảm bảo vững chắc về quốc phòng an ninh, gia tăng phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, từng bước công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
- Nhanh chóng thoát khỏi nền kinh tế thuần nông, độc canh lúa; sớm tạo nên sự phát triển cân đối, toàn diện, phát huy các thế mạnh của huyện nhất là nông lâm nghiệp, công nghiệp chế biến.

8. Mục tiêu cụ thể : <span style=\'color:purple\'>
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn : 2001 - 2010 là : 7,9%/năm, trong đó giai đoạn : 2001 - 2005 là : 7,3%/năm, giai đoạn : 2006 - 2010 là : 8,3%/năm.
- Cơ cấu kinh tế : Tăng nhanh tỷ trọng thương mại - dịch vụ và công nghiệp để cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng Nông lâm nghiệp
- Thương mại dịch vụ - Công nghiệp-TTCN. Cụ thể đến năm 2010 khu vực nông lâm nghiệp chiếm 66,7%, công nghiệp - xây dựng chiếm 5,7%, thương mại - dịch vu chiếm 27,6%.
- GDP (theo giá thực tế) bình quân đầu người năm 2005 là 7,2 triệu đồng, tương đương 480 USD và đến năm 2010 là 11 triệu đồng, tương đương 730 USD.
- Tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách năm 2005 là 2%/năm và năm 2010 là 2,5%/năm ( năm 2001 là 1,9% ).
- Giảm tỷ lệ tăng dân số xuống 1,4% vào năm 2005 và còn 1,3% năm 2010.
- Năm 2005 giảm tỷ lệ hộ nghèo còn 6,5% và năm 2010 còn 3,5%.
- Phổ cập tiểu học theo độ tuổi vào năm 2005, phổ cập phổ thông cơ sở theo chuẩn quốc gia vào năm 2008.
- Tỷ lệ hộ sử dụng điện năm 2005 là 90,0% và năm 2010 là 98%.
- Tỷ lệ hộ sử dụng nước sạch năm 2005 là 85,0% (khu vực đô thị 100,0%) và năm 2010 là 95,0%.

LeGiang
01-01-1970, 07:00 AM
HUYỆN TÂN TRỤ </span>

Địa chỉ: thị trấn Tân Trụ, huyện Tân Trụ.
Điện thoại: 867194, Fax: 867064

1. Vị trí địa lý:
Tân Trụ thuộc vùng châu thổ đồng bằng sông Cửu Long kẹp giữa hai công sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây, là một huyện nằm phía Đông Nam của tỉnh Long An. Phiá Bắc giáp huyện Bến Lức, phiá Đông giáp huyện Cần Đước, phiá Nam giáp huyện Châu Thành và phiá Tây giáp thị xã Tân An và huyện Thủ Thừa.
Huyện Tân Trụ có tổng diện tích tự nhiên khoảng 106,50 km2, chiếm 2,37% diện tích tự nhiên của tỉnh; được chia ra 10 xã và 01 thị trấn. Thị trấn Tân Trụ là trung tâm kinh tế, chính trị và văn hoá của huyện.
Tân Trụ có vị trí địa lý rất thuận lợi. Từ thị trấn Tân Trụ, trung tâm của huyện cách thị xã Tân An của tỉnh khoảng 20 km về phía Tây và cách TP. HCM chỉ khoảng 40 km về phía Nam.

2. Điều kiện tự nhiên:
Khí hậu: Khí hậu của huyện Tân Trụ thuộc vùng nhiệt đới cận xích đạo gió mùa, với hai mùa khô và mùa mưa tương phản. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến hết tháng 10; mùa khô bắt đầu tư tháng 11 đến hết tháng 4 năm sau. Mùa mưa ở Tân trụ thường đến sớm hơn và chấm dứt sớm hơn các huyện phiá Bắc của tỉnh Long An. Tổng lượng mưa trung bình nhiều năm khoảng 1.900 mm, tập trung vào các tháng 6,7,8,9 và 10, chiếm khoảng 90% lượng nước mưa (khoảng 1.500 - 1.600 mmm). Lượng mưa phân bố không đều trong năm: mùa mưa chiếm 85 - 90% lượng mưa cả năm. Từ tháng 9 đến tháng 10 có lượng mưa lớn trùng với mùa lũ nên thường xảy ra ngập úng. Về mùa khô lượng mưa thấp. Mưa ít nhất vào các tháng 2 và 3, vào thời điểm này hầu như không có mưa. Lượng bốc hơi ngược lại, cao ở mùa khô, chiếm tới 67 - 68% tổng lượng bốc hơi cả năm. Điều này thường xảy ra quá trình oxy hoá tầng phèn làm tăng hàm lượng SO4 và Al2O3 gây ra độc hại cây trồng và vật nuôi.
Chế độ mùa mưa là yếu tố khí hậu cơ bản tạo ra sự tương phản giữa 2 mùa khô và mùa mưa. Sự tương phản về mùa trong năm chi phối các yếu tố khí hậu khác: chế độ nhiệt, chế độ nắng và chế độ mưa.
Nhiệt độ không khí trung bình xấp xỉ 270C, nhiệt độ trung bình thấp nhất từ 15 - 170C, thường xảy ra vào tháng 12, trung bình cao nhất từ 31,5 - 320C, thường gặp vào tháng 3 - 4 hàng năm.
Ẩm độ không khí cũng chênh lệch cao giữa mùa mưa và khô. Độ ẩm trung bình 79,5%. Nhưng thời điểm thấp nhất chỉ có 20%, cao nhất đạt tới xấp xỉ 100%.
Chế độ nắng khá dồi dào, trung bình 2.700 giờ/năm, từ 7- 8 giờ/ngày. Số giờ nắng trung bình nhiều nhất vào các tháng đầu mùa mưa (tháng 1,2,3), ít nắng nhất vào các tháng giữa mùa mưa (tháng 7,8,9).
Hướng gió cũng thay đổi theo mùa, với hai chế độ: chế độ gió mùa mưa và mùa khô. Vào mùa khô, gió chủ yếu thịnh hành theo hướng Đông Bắc, với tốc độ trung bình 5 - 7 m/s. Tân Trụ ít có bão, tuy nhiên đôi khi ảnh hưởng bão và áp thấp nhiệt đới, có mưa lớn xảy ra.
Nhiệt độ không khí ổn định là một ưu thế của khí hậu, thuận lợi để tăng năng suất sinh học và cây trồng nông nghiệp. Tuy nhiên, chế độ khí hậu tương phản theo mùa đã gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp và đời sống con người, đặc biệt là thiếu nguồn nước ngọt trong mùa khô.
Nguồn nước: Nguồn nước mặt trên địa bàn huyện Tân Trụ khá phong phú. Hầu như Tân Trụ được bao quanh bởi hệ thống 2 con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây. Phía sông Vàm Cỏ Đông là 15,5 km và phiá sông Vàm Cỏ Tây là 20 km. Đồng Tháp Mười có tổng lượng trung bình hàng năm khoảng 460 tỷ m3 là nguồn cung cấp nước quan trọng cho sông Vàm Cỏ Tây về mùa khô. Ngoài ra, còn sông Nhật Tảo cùng hệ thống kênh rạch chằng chịt tạo nguồn cung cấp thêm nước mặt cho sản xuất và đời sống của con người.
Nguồn nước mưa: Do chế độ mưa phân phối không đồng đều nên thường gây ra úng cục bộ trong mùa mưa và thiếu nước ngọt trong mùa khô. Nước mưa là nguồn chủ yếu được trữ để sinh hoạt cả năm.
Nguồn nước mặn: So Tân Trụ nằm giữa hạ lưu của sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây, cho nên ảnh hưởng chế độ bán nhật triều biển Đông khá mạnh. Vào mùa khô, nước mặn từ cửa Soài Rạp theo cửa sông chảy vào hệ thống kênh nội đồng làm cho quá trình nhiễm mặn xảy ra. Tuy nhiên, nguồn nước mặn cũng là một lợi thế để phát triển sinh thái ngập mặn về thuỷ sản và lâm nghiệp.
Nguồn nước ngầm: Theo tài liệu đánh giá của Liên đoàn địa chất thuỷ văn và địa chất công trình năm 1998 cho thấy:
- Các tầng chưa nước nông có chất lượng trung bình và kém, hầu như bị nhiễm phèn, không sử dụng trực tiếp được.
- Các tầng ở độ sâu 280 - 320 m có chất lượng nước trung bình và tốt có thể cung cấp cho sinh hoạt con người.
Thuỷ văn: Chế độ thuỷ văn của huyện chịu tác động mạnh của chế độ bán nhật triều của Biển Đông.
Vào mùa khô thuỷ triều đưa nước mặn từ cửa Soài Rạp vào nội đồng. Ở hệ thống sông Vàm Cỏ Tây (tại Bến Lức) có số ngày nhiễm mặn khoảng 130 - 160 ngày. Ở hệ thống sông Vàm Cỏ Tây đô mặn S 2g/lít, thường xuất hiện trễ hơn ở sông Vàm Cỏ Đông 12- 20 ngày (xuất hiện vào giữa tháng 2). Ngược lại, vào mùa mưa chế độ dòng chảy chịu tác động của lũ từ hệ thống sông Tiền tràn qua khu vực Đồng Tháp Mười gây ra úng nhiều nơi trên địa bàn.
Mực nước giữa sông Vàm Cỏ Tây và sông Vàm Cỏ Đông chênh nhau khoảng 0,15m. Lợi dụng sự chênh lệch này, vào mùa khô có thể lấy nước tự chảy từ sông Vàm Cỏ Tây vào khu vực nội đồng thuận lợi hơn phiá sông Vàm Cỏ Đông. Vào muà mưa có thể tiêu nước qua sông Vàm Cỏ Đông dễ dàng hơn phiá sông Vàm Cỏ Tây.
Địa hình và địa chất:
Địa hình của huyện Tân Trụ khá bằng phẳng, hơi nghiêng về phiá Đông, độ cao trung bình là + 0,85 m.
Địa chất của huyện thuộc loại đất phù sa mới được bồi đắp trên nền đất mềm yếu.
Di tích lịch sử văn hoá: Trên địa bàn huyện có một số di tích lịch sử như Vàm Nhật Tảo, di tích cách mạng Đám lá tối trời, kiến trúc văn hoá chợ Mỹ Bình, miếu Xã Hương.

3. Đất đai:
Diện tích toàn huyện là 10.649,6 ha.
Đất ở Tân trụ thuộc loại đất phù sa. Đất phù sa được chia làm 3 loại. Trong đó, đất phù sa đang phát triển có 4.362 ha, chiếm 41%; đất phù sa đang phát triển điển hình có 2.384 ha, chiếm 22,4%. Đất phèn có 6 loại. Trong đó, đất phèn nhẹ có 1.650 ha, chiếm 15,5%, đất phèn nhẹ nhiễm mặn có 1.200 ha, chiếm 11,3%. Đất phèn nhiễm mặn nặng có 237 ha, chiếm 2,2% diện tích.
Sử dụng đất: Tiềm năng lớn nhất của huyện Tân Trụ là đất đai. Trong đó nông nghiệp đến năm 2000 có khoảng 8.968 ha, chiếm trên 84% diện tích tự nhiên, đất ở có 506 ha, chiếm 4,8% diện tích đất tự nhiên, đất chuyên dùng khoảng 378,4 ha chiếm 3,6%.
Trong thời kỳ năm 1995 - 2000, sử dụng đất đai của huyện theo hướng tận dụng nguồn tài nguyên đất đai sẵn có vào mục đích phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Đất chưa sử dụng giảm dần từ 847,8 ha năm 1995 giảm xuống còn 788 ha năm 2000, tốc độ giảm bình quân 1,45/năm trong vòng 5 năm. Tỷ lệ đất chưa sử dụng trong tổng diện tích đất tự nhiên giảm từ 8,2% năm 1995 xuống còn 7,4%. Diện tích đưa vào sản xuất và xây dựng cơ sở hạ tầng tăng lên. Đất đưa vào sản xuất nông nghiệp tăng lên 264,7 ha trong vòng 5 năm. Đất chuyên dùng bình quân tăng 2,6%/năm, trong đó đất sử dụng xây dựng và thổ cư tăng bình quân 11,1% thời kỳ 1996- 2000. Đất phát triển các công trình thuỷ lợi phục vụ sản xuất tăng 3,85%/năm trong cùng thời kỳ. Tương ứng với tăng diện tích thuỷ lợi, diện tích nông nghiệp cũng tăng bình quân 0,6%/năm, trong đó diện tích cây lâu năm tăng 7%/năm trong cùng thời kỳ. Trong cùng thời kỳ này, diện tích đất ở tăng bình quân 1,6%/năm, trong đó diện tích đất ở nông thôn tăng 1,62%/năm và đất ở đô thị tăng 1,24%/năm.
Thực trạng sử dụng đất đai trong huyện, theo kết quả điều tra kinh tế xã hội huyện Tân Trụ năm 2000 cho thấy: đất trồng luá chiếm 94% tổng diện tích đất nông nghiệp, đất màu chiếm 1,6%, đất chăn nuôi chiếm 1,8%, đất dành cho nuôi trồng thuỷ sản chiếm 1,2%

4. Dân số và nguồn nhân lực:
- Thực trạng phát triển dân số thời kỳ 1991 - 2000:
Theo số liệu thống kê, dân số huyện Tân Trụ năm 2000 là 61,4 ngàn người, trong đó nữ 31,2 ngàn người chiếm 52% và chiếm 4,6% dân số toàn tỉnh. Mật độ dân số khoảng 564 người/km2. Dân số Tân Trụ chủ yếu cư trú vùng nông thôn với hơn 54 ngàn dân, chiếm 90% dân số huyện, dân thành thị chỉ 6,0 ngàn người, chiếm 10% dân số.
Dân số từ 15 tuổi trở lên có khoảng 35 ngàn người, chiếm gần 60% dân số toàn huyện. Đây là một nguồn lực quan trọng đóng góp cho phát triển kinh tế xã hội của huyện.
Tốc độ tăng dân số bình quân của huyện là 0,6%, là một trong những huyện có tỷ lệ tăng dân số thấp nhất (trung bình chung của tỉnh là 1,55%).
- Thực trạng lao động, việc làm thời kỳ 1991 - 2000.
Lực lượng lao động tham gia hoạt động kinh tế xã hội của huyện đến năm 2000 có khoảng 35.620 người. Trong đó, lực lượng trong độ tuổi có 31.915 người, chiếm 52% tổng dân số huyện và chiếm 90% lực lượng lao động hoạt động trong các ngành kinh tế- xã hội.
Lao động có việc làm thường xuyên khoảng 33.305 người, chiếm 93,5% lực lượng lao động toàn xã hội. Lực lượng lao động thiếu việc làm khoảng 4.863 người, chiếm 13,7% lực lượng lao động toàn xã hội. Lực lượng không có việc làm khoảng 2.315 người, chiếm 6,5% lực lượng lao động xã hội.
Cơ cấu sử dụng lao động trong các ngành nông lâm nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng khá cao, khoảng 77,1%, các ngành công nghiệp chỉ khoảng 12,7%, các ngành dịch vụ chiếm gần 10,2%.
Điều tra lao động theo thành phần kinh tế cho thấy, chủ yếu là thành phần cá thể, chiếm gần 82%, công chức Nhà nước chiếm trên 14%, lao động trong các xí nghiệp tư nhân không đáng kể.
Tóm lại, nguồn lực của huyện Tân Trụ có nhiều tiềm năng, tuy nhiên lao động tham gia hoạt động nền kinh tế vẫn chỉ tập trung vào các ngành khu vực I là chủ yếu; trong khí đó, các ngành công nghiệp và dịch vụ chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ. Như vậy, yêu cầu đặt ra là phải chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhằm tăng nhanh số lượng lao động trong các ngành côngnghiệp và dịch vụ. Đồng thời tăng thu nhập, tạo việc làm để cải thiện và nâng cao đời sống của người lao động.

5. Những lợi thế, hạn chế và thách thức:
Lợi thế:
- Tân Trụ có vị trí địa lý thuận lợi phát triển kinh tế xã hội, gần kề với thị xã Tân An - trung tâm kinh tế văn hoá của tỉnh, các trung tâm kinh tế lớn: thành phố Hồ Chí Minh, địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam không xa. Có tiềm năng để phát triển du lịch sinh thái gắn với di tích lịch sử.
- Khí hậu ôn hoà, nguồn nước phong phú thuận lợi phát triển kinh tế toàn diện.
- Nguồn lao động dồi dào, cần cù, có kinh nghiệm tổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp.
- Hệ thống giao thông tương đối đồng đều, thông thương giữa các ấp xã trong toàn huyện được thuận lợi và với các trung tâm kinh tế thị xã Tân An, thành phố Hồ Chí Minh và địa bàn kinh tế trọng điểm phiá Nam.
- Tiềm năng lớn nhất của Tân Trụ là đất đai, thích hợp phát triển cây luá, cây ăn quả, rau các loại, chăn nuôi và thuỷ sản. Là một trong hững huyện có đất đai màu mỡ, thuần thục, ít ngập úng, sản xuất ổn định của tỉnh Long An. Đây có thể xem như lợi thế quan trọng nhất của huyện để phát triển dự trên quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nền nông nghiệp - nông thôn có điều kiện phát triển kinh tế tổng hợp.
Hạn chế và thách thức:
- Điều kiện khí hậu tuy ôn hoà, nhưng có hai mùa tương phản đã gây ra nhiều bất lợi cho sản xuất nông nghiệp. Nguồn nước ở Tân Trụ tuy dồi dào, nhưng phân bố không đồng đều theo không gian và thời gian: mùa mưa thì ngập lụt, mùa khô thì thiếu nước. Địa hình thấp trên nền đất yếu, thường ngập nước. Do vậy phải chi phí cao cho xây dựng và duy tu bảo dưỡng cơ sở hạ tầng. Nguồn tài nguyên khoáng sản chưa phát hiện được, nguồn vật liệu xây dựng hạn chế, do vậy suất đầu tư cao.
- Nguồn lao động là động lực phát triển, có số lượng lớn nhưng chất lượng còn hạn chế, trình độ lao động đào tạo có chuyên môn nghiệp vụ còn thấp. Trình độ văn hoá chung của nhân dân khá cao, song đổi mới tư duy theo cơ chế thị trường còn chậm, phương thức sản xuất kinh doanh còn mang nặng kinh nghiệm truyền thống.
- Cơ sở hạ tầng: giao thông, điện nước còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển sản xuất và đời sống.
- Sử dụng đất đai còn hạn chế, chưa phát huy hết tiềm năng đất, cơ cấu cây trồng, vật nuôi chưa thật sự phù hợp và ổn định. Chưa phát huy thế mạnh thuỷ sản và du lịch của huyện.
- Cơ cấu kinh tế còn chưa hợp lý, nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng quá cao, trong khi đó công nghiệp còn quá thấp. Đến năm 2000, cơ cấu kinh tế của huyện với khu vực I là 65,4%, khu vực II là 12,8%, khu vực III là 21,5%. Cơ cấu của tỉnh Long An tương ứng KVI là 51,0%, KVII là 20,5%, KVIII là 28,5%. Cơ cấu của cả nước tương ứng KVI là 24,3%, KVII là 39,1%, KVIII là 36,6%.
- Xuất phát điểm của nền kinh tế còn thấp thể hiện là: mức sống dân cư thấp, thu nhập bình quân đầu người mới đạt 4 triệu đồng năm 2000, tương đương 360 USD (Đồng bằng sông Cửu Long là USD/người/năm). Các điều kiện phúc lợi xã hội còn thấp và thiếu thốn nhiều. Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ còn hạn chế. Thị trường chưa phát triển mạnh trong khi thành phố Hồ Chí Minh có vị trí không xa lại là nơi có thị trường phát triển rất mạnh có thể lấn át thị trường của huyện. Những yếu tố trên là những thách thức rất lớn trogn quá trình phát triển của huyện, đòi hỏi phải có chính sách đúng đắn đồng bộ, bước đi phù hợp, nhằm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội cân đối trong giai đoạn tới.

6. Những quan điểm phát triển cơ bản: <span style=\'color:purple\'>
- Phát triển nguồn nội lực: Lợi thế so sánh lớn nhất của huyện Tân Trụ là nguồn nhân lục và tài nguyên đất nước còn nhiều tiềm năng lớn. do vậy, quan điểm là dựa vào các nguồn lực nội tại là chính, tranh thủ các yếu tố bên ngoài là quan trọng.
Tân Trụ là huyện nông nghiệp. Đầu tư khai thác có hiệu quả những lợi thế và tiềm năng đất đai, nông nghiệp là trọng tâm của quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá trong giai đoạn từ nay đến năm 2010.
Mặt khác, quá trình công nghiệp hoá phải thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm nhanh tỷ trọng nông nghiệp, tăng nhanh tỷ trọng dịch vụ và công nghiệp bằng cách phát triển các ngành công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp, với qui mô vừa và nhỏ ở các vùng nông thôn.
Thế mạnh về nguồnnhân lực của huyện là dồi dào. Vì vậy, đầu tư và phát triển nguồn nhân lực một cách hợp lý để không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là nội dung có tính chiến lược, nhằm phát huy thế mạnh nội lực để phát triển bền vững trong những thập kỷ tới.
- Phát triển cân đối lãnh thổ: Phát triển hài hoà giữa các vùng lãnh thổ trên địa bàn huyện có ý nghĩa quan trọng để khắc phục tình trạng phân bố không đồng đều về các nguồn lực trong mỗi tiểu vùng. Vùng ''thượng'' và khu vực thị trấn có nhiều cơ hội phát triển công nghiệp động lực, cần xây dựng và hình thành các khu, cụm công nghiệp chủ đạo và mũi nhọn gắn với các khu, cụm công nghiệp của tỉnh.
- Phát triển hợp tác và cạnh tranh kinh tế: Đất đai, lao động và vị trí thuận lợi là những lợi thế, nhưng những nguồn lực đó chưa được khai thác hợp lý. Vì vậy, hợp tác với các huyện, tỉnh, địa phương khác nhằm tập trung sức người, sức của, vốn liếng, tiến bộ khoa học kỹ thuật và thị trường sẽ tạo ra sức mạnh tổng lực để khai thác các nguồn lực có hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, tập trung đầu tư vào những ngành, lĩnh vực có nhiều lợi thế so sánh nhằm tăng lên sức cạnh tranh hàng hoá của hàng hoá trên thị trường trong nước và quốc tế. Cần xem như hợp tác và cạnh tranh là hai mặt của một quá trình, vừa hỗ trợ vừa bổ sung cho nhau trong một mô hình kinh tế hoàn chỉnh, đem lại hiệu quả cao.
- Phát triển kinh tế kết hợp an ninh quốc phòng: Phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ và hài hoà với phát triển xã hội và an ninh quốc phòng là quan điểm đúng đắn có tầm chiến lược để phát triển ổn định và bền vững. Đặc biệt là ở những nơi có nhiều khó khăn phát triển kinh tế, nhưng lại có vị trí rất quan trọng về an ninh quốc phòng như vùng "hạ" của huyện cần được quan tâm. Vì vậy, ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để phát triển những vùng khó khăn, xây dựng các cụm dân cư phát triển mạnh về kinh tế- xã hội, vững chắc về an ninh quốc phòng trên địa bàn huyện.
- Phát triển kinh tế kết hợp với bảo vệ môi trường: Những dấu hiệu suy giảm môi trường là do khai thác tài nguyên nước không hợp lý, chế độ canh tác không phù hợp, công tác quản lý, bảo vệ môi trường thiếu chặt chẽ. Vì vậy, các phương án phát triển cần phải được cân nhắc, xem xét đồng bộ với chiến lược bảo vệ và tiến tới phát triển môi trường bền vững của huyện và toàn vùng

LeGiang
01-01-1970, 07:00 AM
HUYỆN THẠNH HOÁ</span>

Địa chỉ: Khóm 2 thị trấn Thạnh Hoá huyện Thạnh Hoá.
Điện thoại: 857115, Fax: 857322

1. Vị trí địa lý kinh tế:
Huyện Thạnh Hóa nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Long An với diện tích tự nhiên 46.826 ha, cách thị xã Tân An 36 Km về phía Bắc theo quốc lộ 62. Ranh giới hành chính huyện Thạnh Hóa được xác định bởi phía Bắc giáp Campuchia, phía Đông Bắc giáp huyện Đức Huệ, phía Nam giáp tỉnh Tiền Giang, phía Tây giáp huyện Mộc Hóa, phía Tây Nam giáp huyện Tân Thạnh, phía Đông giáp huyện Thủ Thừa.
Thạnh Hóa là huyện thuộc vùng Đồng Tháp Mười, hàng năm chịu ảnh hưởng của lũ lụt. Sự hình thành và phát triển kinh tế - xã hội của Thạnh Hóa gắn liền với quá trình khai thác đất hoang hóa, di dân xây dựng vùng kinh tế mới ở Đồng Tháp Mười. Cơ sở hạ tầng còn rất thiếu và không đồng bộ, đã gây trở ngại không nhỏ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Trong phân vùng địa lý kinh tế của tỉnh Long An, Thạnh Hóa thuộc tiểu vùng IV (gồm Thạnh Hóa, Bắc Thủ Thừa, và một phần huyện Tân Thạnh). Với nhiệm vụ chủ yếu là phát triển nông - lâm - ngư nghiệp, cụ thể là: ổn định sản xuất 2 vụ lúa (ĐX-HT), luân canh lúa - đay, lâm nghiệp (phát triển tràm cừ) và nuôi thủy sản nước ngọt.
Xét về vị trí địa lý kết hợp với kiến tạo địa chất trầm tích và quá trình khai thác tài nguyên phát triển kinh tế - xã hội cho thấy lợi thế cơ bản của Thạnh Hóa là :
+ Có ba nhóm đất đặc trưng là phù sa, đất xám và đất phèn, trong điều kiện đủ nước ngọt quanh năm có thể gia tăng tối đa việc trồng lúa trên đất phèn; ngoài ra, có thể cải tạo đất xám để tiến hành đa dạng hóa cây trồng một cách hợp lý, tránh được tình trạng độc canh cây lúa.
+ Đất mới khai thác, đặc biệt là đất phèn và đất xám ở địa hình thấp có độ phì tự nhiên và tiềm tàng cao, cho phép thâm canh, tăng vụ lúa có hiệu quả.
+ Thạnh Hóa thuộc vùng Đồng Tháp Mười, trong những năm vừa qua đã có sự quan tâm đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống nên cuộc sống của người dân ngày càng được cải thiện.
+ Tuyến biên giới với CampuChia dài 9 Km (chiếm 6,4% tổng chiều dài biên giới của tỉnh Long An), được xem là vô cùng quan trọng về mặt quốc phòng.
+ Cầu Tuyên Nhơn hoàn thành, các quốc lộ 62, N1, N2, kết nối với QL22 (đường xuyên Á) và các cơ sở hạ tầng khác sẽ tạo điều kiện cho kinh tế thị trường ở Thạnh Hóa phát triển, nhất là lĩnh vực công nghiệp, khả năng giao lưu trao đổi hàng hóa giữa huyện và các vùng khác thuận lợi và nhanh chóng hơn
Ngoài những lợi thế cơ bản nêu trên, vị trí địa lý kinh tế của huyện Thạnh Hóa cũng có một số hạn chế :
+ Bị ảnh hưởng của lũ lụt thường niên dễ gây rủi ro cho sản xuất, làm hư hại cơ sở hạ tầng, hạn chế kết quả phát triển kinh tế và gia tăng vốn đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, đời sống.
+ Kiến tạo bậc thềm phù sa cổ, đất xám có tầng loang lổ nhiễm phèn Xf(s) có thành phần cơ giới nhẹ, nghèo dưỡng chất, giữ nước và phân kém,... đất phèn ở địa hình trũng có nồng độ các độc tố cao (SO42-, Al3+, Fe3+), trong khi thủy lợi chưa hoàn chỉnh dễ gây ảnh hưởng xấu cho cây trồng.
+ Cơ sở hạ tầng nông thôn: đường giao thông, thủy lợi, điện, trường học, trạm y tế, nước sinh hoạt chưa phát triển, xa thị trường tiêu thụ nên hạn chế lớn đến việc phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện.
+ Tình hình an ninh biên giới luôn tiềm ẩn những phức tạp, đồng thời nạn buôn lậu qua biên giới vẫn còn tồn tại nên có những tác động không tốt đến sản xuất và đời sống.
Để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội cần thấy hết các lợi thế để khai thác; đồng thời khắc phục, giảm thiểu ảnh hưởng xấu của các hạn chế tạo động lực phát triển nền kinh tế một cách ổn định và bền vững.

2. Đặc điểm tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên :
Khí hậu huyện Thạnh Hóa mang tính chất đặc trưng nhiệt đới gió mùa với nền nhiệt cao đều quanh năm, ánh sáng dồi dào, lượng mưa khá lớn và phân bố theo mùa. Nhiệt độ bình quân năm là 27,2oC, tháng 5 là tháng nóng nhất với nhiệt độ trung bình 29,3oC. Biên độ nhiệt trong năm dao động khoảng 4,3oC và biên độ nhiệt ngày và đêm dao động cao (từ 8oC đến 10oC). Tổng tích ôn : 9.786oC/năm. Đây là điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp theo hướng thâm canh, đặc biệt là cây lúa, ngô, rau đậu thực phẩm.
Lượng mưa trung bình năm khá lớn (1.447,7 mm/năm) và phân bố theo mùa rõ rệt. Tổng lượng mưa trong mùa mưa thực sự : 1.332 mm (chiếm 92% tổng lượng mưa cả năm), bắt đầu khoảng cuối tháng V và kết thúc vào cuối tháng X (kéo dài 164 ngày). Mùa mưa trùng với mùa lũ gây ngập úng, cản trở quá trình sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
Nguồn nước và chế độ thủy văn :
Thạnh Hóa có nguồn tài nguyên nước mặt khá dồi dào song phân bố không đều cả về số lượng và chất lượng. Đối với vụ Đông Xuân khả năng cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp rất thuận lợi, nhiều vùng sử dụng phương pháp tưới tự chảy (nhờ triều) có hiệu quả cao. Tuy nhiên, vụ Hè Thu khả năng cung cấp nước cho sản xuất lại rất hạn chế vào thời kỳ đầu vụ; đặc biệt vùng Bắc Đông thiếu nước ngọt phục vụ sản xuất và sinh hoạt.
Hệ thống sông rạch và kênh mương dẫn nước mặt của huyện Thạnh Hóa gồm Sông Vàm Cỏ Tây bắt nguồn từ Svayriêng (CamPuChia) chảy vào Việt Nam tại Bình Tứ theo hướng Tây Nam nối với sông Vàm Cỏ Đông, đoạn chảy qua huyện Thạnh Hóa dài khoảng 25 Km, rộng từ 125-200m, sông chảy quanh co và gấp khúc. Nguồn nước ngọt lớn thứ hai lấy từ sông Tiền tiếp qua kênh Hồng ngự về Kênh 61 và kênh Dương Văn Dương. Hệ thống kênh tạo nguồn gồm có: Kênh An Xuyên, kênh Dương Văn Dương, kênh Mareng, kênh 61, kênh Bắc Đông, cung cấp nước cho sản xuất và đời sống, đồng thời góp phần thoát lũ trong mùa mưa. Ngoài ra còn có hơn 300 kênh nội đồng lớn nhỏ phục vụ cho nhu cầu tưới, tiêu úng, xả phèn phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Trong khu vực huyện Thạnh Hóa nước mạch nông xuất hiện ở độ sâu 27 - 30 mét, nhưng do ảnh hưởng của phèn nên chất lượng không tốt, khả năng sử dụng cho sinh hoạt bị hạn chế. Hơn nữa, tại Thạnh Hóa nước ngầm có hàm lượng tổng độ khoáng hóa rất thấp (1-3g/l) và PH<4, nên việc sử dụng nước ngầm ở độ sâu <40 m để tưới hỗ trợ cho nông nghiệp và sinh hoạt rất hạn chế. Nước ngầm có khả năng khai thác ở độ sâu 260 - 290 m, trữ lượng 400m3 ngày đêm/giếng, lưu lượng nước 05 lít /s và chất lượng tốt.
Chế độ thủy văn :
Vấn đề ngập lũ là quy luật thường niên của ĐBSCL, trong đó Thạnh Hóa được xếp vào một trong những huyện chịu ảnh hưởng nặng. Lũ lớn đang có xu thế rút ngắn chu kỳ từ 12 năm xuống còn 6 năm và 3 năm (1961, 1978, 1984, 1991, 1994, 1996, 2000) trong đó lũ lịch sử năm 2000 đã gây thiệt hại rất nặng nề cho Thạnh Hóa. Tuy nhiên lũ mang đến lượng phù sa đáng kể tăng thêm màu mở cho ruộng đồng, thau chua rữa phèn, tăng nguồn lợi thủy sản, vệ sinh môi trường.
Ảnh hưởng của phèn - mặn : Thạnh Hóa thuộc khu vực bị chua nặng, nhất là khu Bắc Đôngï. Nguyên nhân làm nước trong kênh rạch bị chua là vì vào mùa khô (tháng III, IV và V), tầng sinh phèn bị oxy hóa, khi gặp mưa, các loại muối oxy hóa được hòa tan theo nước mặt chảy vào kênh rạch và các nơi đất trũng, làm pH giảm < 4,0, đặc biệt là ở các vùng đất mới khai hoang. Do đó, chua ở Thạnh Hóa rất khó giải quyết bởi địa hình trũng khả năng tiêu thoát kém.
Ảnh hưởng mặn: Mặn 4 g/l trên sông Vàm Cỏ Tây bình quân nhiều năm chỉ ngang hoặc qua Tuyên Nhơn 5 - 10 Km về phía thượng lưu. Song, vào các năm 1992, 1993 mặn đã ảnh hưởng sâu hơn và nồng độ mặn cũng lớn hơn bình quân nhiều năm. Giới hạn mặn 1 g/l đã đến Vĩnh Hưng (1992). Đỉnh mặn trên sông Vàm Cỏ Tây tùy từng nơi cao hơn bình quân nhiều năm từ 1 - 3 g/l.

3. Tài nguyên:
Đất: Theo kết quả điều tra xây dựng bản đồ đất tỷ lệ 1/25.000 năm 1998 của Phân viện Quy hoạch - TKNN cho thấy toàn huyện có 4 nhóm đất với 7 đơn vị chú giải bản đồ đất; trong đó, nhóm đất phù sa có 4.566 ha (chiếm 9,8% DTTN) và nhóm đất phèn 34.063 ha (chiếm 72,7% DTTN), nhóm đất xám 2.020 ha (chiếm 4,3%), nhóm đất xáo trộn 4.989 ha chiếm 10,7% DTTN. Như vậy, hầu hết diện tích đất của huyện Thạnh Hóa thuộc loại ''đất có vấn đề'', do đó sử dụng vào sản xuất nông nghiệp được xem là một hạn chế lớn của huyện.
+ Nhóm đất phù sa : Diện tích 4.566 ha (chiếm 9,8% DTTN), phân bố dọc theo sông Vàm Cỏ Tây gồm các xã: Thạnh Phú 680 ha, Thuận Nghĩa Hòa 1.267 ha, Thạnh Phước 883 ha,Tân Đông 836 ha, Tân Tây 450 ha, Thủy Đông 200 ha, Thủy Tây 250 ha.
Thành phần cơ giới nặng (tỷ lệ sét cao), hàm lượng sét vật lý từ 45-60%, thoát nước kém. Đất có độ phì nhiêu khá, mùn từ 10-20%, đạm tổng số cao (0,1-0,39%), nghèo lân (0,14-0,06%) và ka li cao (0,83%). Đây là loại đất tốt thích hợp cho trồng lúa nước 2 vụ hoặc luân canh lúa đay, nguồn nước ngọt dồi dào, có điều kiện thâm canh tăng năng suất cây trồng.
+ Nhóm đất xám: 2.020 Ha, chiếm 4.3% DTTN. Gồm 01 đơn vị chú giải bản đồ, phân bố dọc tuyến biên giới Việt Nam - CamPuChia, nằm trên địa bàn xã Tân Hiệp. Đất có thành phần cơ giới nhẹ (thịt pha cát). Hàm lượng đạm trung bình (0,1-0,25%), nghèo lân (0,01-0,06%), nghèo ka li (0,12%). Đất xám trong điều kiện có nước tưới chủ động, canh tác lúa hoặc luân canh lúa màu cho hiệu quả khá.
+ Nhóm đất phèn: Đất phèn có diện tích 34.063 Ha, chiếm 72,74% DTTN. Gồm 4 đơn vị chú giải bản đồ, phân bố ở địa hình thấp trũng (kiểu địa hình đặc trưng của vùng Đồng Tháp Mười), có ở hầu hết các xã trong huyện.
Đất phèn nhìn chung có trị số pH thấp, hàm lượng SO4 lại rất cao (>0,15-0,25%). Đất có thành phần cơ giới nặng, hàm lượng chất hữu cơ cao, mùn xấp xỉ 12-24%, đạm cao (0,4-0,8%). Vì vậy, khi sử dụng đất phèn cần chú trọng biện pháp tiêu phèn và ngăn chặn phèn ngoại lai. Đất phèn có tầng phèn sâu trong điều kiện có nước tưới, khả năng sản xuất lúa không kém nhiều so với đất phù sa.
+ Nhóm đất xáo trộn Vp (đất líp): Nhóm đất này được hình thành do bàn tay của con người, diện tích 4.989 ha chiếm 10,7%, tập trung chủ yếu ở các xã Thủy Đông , Thủy Tây và Thị trấn Thạnh Hóa. Đất líp chủ yếu trồng các loại cây màu (khoai mỡ, khoai mỳ, màu, dưa hấu…).
Tóm lại, đất ở Thạnh Hóa 100% diện tích đều có “vấn đề”, việc khai thác phải tôn trọng các quy luật khách quan, chú trọng đầu tư đồng bộ các biện pháp cải tạo và bảo vệ đất. Có như vậy sản xuất nông nghiệp mới phát triển bền vững và mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Tài nguyên rừng: Năm 1995 có 2.790 ha rừng, trong đó hầu hết là tràm cừ ; đến năm 2002 diện tích rừng tăng lên : 14.075 ha (tỷ lệ che phủ 32%) kể cả cây lâu năm và vườn tạp, phần lớn rừng trồng từ sau năm 1995 mật độ cao, giống tốt nên trữ lượng khá.
Nguồn tài nguyên động vật dưới tán rừng đã dần được phục hồi, đây là thành quả đáng ghi nhận của chương trình 773/TTg và 661/TTg, đã góp phần sử dụng hợp lý và hiệu quả tài nguyên cũng như khôi phục hệ sinh thái vốn có của vùng đất phèn.
Tài nguyên khoáng sản : Theo tài liệu bản đồ địa chất VN 1996, vệt than bùn ở xã Thuận Bình - Tân Hiệp có chất lượng xấu, độ tro cao và chứa nhiều sét, hàm lượng mùn và NPK đáng kể có thể khai thác làm phân bón, cần phải khảo sát cụ thể về trữ lượng và quy mô.

4. Dân số và lao động:
Dân số trung bình năm 1996 là 43.474 người đến năm 2002 là 51.729 người, mật độ dân số 110 người/km2, chỉ bằng 35,1% mật độ dân số trung bình của tỉnh Long An (313 người/km2) nên Thạnh Hóa được xem là huyện đất rộng người thưa. Dân số thành thị có: 4.660 người(chiếm 9,0% dân số), dân số nông thôn 47.069 người (chiếm 91% dân số), tốc độ tăng dân số bình quân 2,9%/năm, trong đó tăng tự nhiên là 1,8%.
Do vậy, bằng các biện pháp mở rộng sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng các xã vùng sâu, xã biên giới ngày càng hoàn thiện, thu hút dân cư các xã phía nam đến định cư, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, xây dựng tuyến phòng thủ biên giới vững chắc và ổn định.
Tổng số lao động toàn huyện năm 2002 là 28.968 người; trong đó, nông - lâm nghiệp 23.856 người (chiếm 82,4%), công nghiệp - TTCN 467 người (chiếm 1,6%) và thương mại - dịch vụ 3.138 người (chiếm 10,8%), lao động khác 1.507 người chiếm 5,2%. Như vậy, nguồn nhân lực tập trung chủ yếu cho nông - lâm nghiệp, việc chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm và có phần chưa được hợp lý.
Nguồn nhân lực của huyện Thạnh Hóa có chất lượng thấp, đây là một nguyên nhân ảnh hưởng đến phát triển kinh tế vì nhân lực là nhân tố quan trọng hàng đầu của lực lượng sản xuất.
Số lao động có chuyên môn kỹ thuật và quản lý trong các ngành là 439 người (chiếm 1,5% lao động xã hội); trong đó, đại học 80 người, trung cấp 167 người. Nếu kể cả trình độ sơ cấp và công nhân kỹ thuật ước khoảng 3.0% thì tổng số lao động được đào tạo là 4,5%, song lại tập trung ở khu vực quản lý nhà nước, giáo dục, y tế. Do vậy, đây là một tồn tại lớn của huyện Thạnh Hóa.
Để phát triển kinh tế - xã hội, nhất thiết phải đào tạo, nâng cao mặt bằng dân trí, trình độ chuyên môn cho người lao động, để họ có khả năng tiếp thu và ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả công việc.

5. Đánh giá chung
Những lợi thế:
- Thạnh Hóa được cung cấp nguồn nước ngọt từ sông Tiền qua kênh Dương Văn Dương và kênh 61, sông Vàm Cỏ Tây phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và đời sống của nhân dân, hàng năm được bồi đắp lượng phù sa đáng kể làm màu mỡ đất đai, nâng cao năng suất cây trồng.
- Thạnh Hóa được hưởng lợi chương trình đầu tư khai thác vùng ĐTM của Chính phủ, nên đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng lên rõ rệt.
- Thạnh Hóa có tuyến quốc lộ 62 chạy qua, trục giao thông vô cùng quan trọng trong việc xây dựng kinh tế kết hợp với củng cố quốc phòng, mặt khác hệ thống giao thông thủy rất thuận lợi cho việc vận chuyển và giao lưu hàng hóa với Mộc Hóa, Tháp Mười (Đồng Tháp), thị xã Tân An và TP Hồ Chí Minh.
- Với dự báo trong tương lai gần đường N2, N1 được xây dựng, cầu Tuyên Nhơn hoàn thành kết nối với QL22 và các cơ sở hạ tầng khác, góp phần nâng cao mức sống cho nhân dân trong huyện. Nguồn nhân lực dồi dào, có truyền thống cách mạng, tự lực tự cường thực hiện tốt các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
- Trong quá trình phát triển, thông qua ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, đã xây dựng thành công một số mô hình sản xuất đạt hiệu quả khá cả về kinh tế - xã hội - môi trường. Đây là tiền đề quan trọng cho kinh tế hàng hóa tiếp tục phát triển một cách bền vững.
Những hạn chế :
- Đất đai có chất lượng thấp (đất phèn nhiều độc tố, đất xám nghèo dưỡng chất) lại phân bố trên các địa hình có nhiều chia cắt bởi kênh rạch. Đây được xem là hạn chế lớn trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh tế, đầu tư cải tạo đất tốn kém, năng suất cây trồng thấp, giá thành cao, nên sản phẩm có sức cạnh tranh kém trên thị trường.
- Cơ sở hạ tầng còn thiếu và chưa đồng bộ, đặc biệt là giao thông đường bộ, công trình kiểm soát lũ và cơ sở vật chất phục vụ dân sinh (trường học, y tế, chợ,. . .) còn thiếu nghiêm trọng, thông tin liên lạc còn yếu,. . . cộng với hàng năm chịu ảnh hưởng của lũ lụt và thiên tai, là những cản ngại trong quá trình phát triển kinh tế.
- Phần lớn dân cư của huyện Thạnh Hóa có đời sống khó khăn, thu nhập thấp; lao động chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ cao (khoảng 95%).
- Công nghiệp - TTCN và Thương mại - dịch vụ chưa phát triển, chưa hỗ trợ cho nông nghiệp phát triển; kinh tế của huyện Thạnh Hóa “thuần nông”, thu nhập chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp (>80%), trong khi lũ lụt, thiên tai diễn ra liên tiếp, cộng với biến động bất lợi về giá cả nông sản, làm cho đời sống người dân càng khó khăn, khả năng tích lũy tái đầu tư cho sản xuất yếu. Năng lực quản lý điều hành của hệ thống quản lý nhà nước còn hạn chế.
- Do nằm trong vùng lũ, khả năng thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài vào để phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp, nông thôn nói riêng ở huyện Thạnh Hóa có hạn chế, cho nên muốn phát triển kinh tế - xã hội phải dựa vào chính nội lực mà tiềm năng này của huyện lại rất có hạn.

6. Quan điểm phát triển:
Khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực (nguồn nhân lực, tài nguyên đất, nguồn nước) mở rộng sản xuất, lấy hiệu quả kinh tế và chất lượng cuộc sống làm tiêu chuẩn phát triển. Phát triển sản xuất gắn với thị trường tiêu thụ. Thực hiện tốt chiến lược tăng trưởng kinh tế đi đôi với việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động. Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa nền kinh tế, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng khá, ổn định và bền vững, từng bước hội nhập kinh tế Quốc tế và khu vực. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực và hiệu quả, nhất là trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn, thương mại và dịch vụ, từng bước phát triển công nghiệp, trước hết là công nghiệp chế biến nông sản. Phát triển nguồn nhân lực, nâng cao mặt bằng dân trí, cung cấp nguồn lao động có tay nghề cao cho nền kinh tế. Mở rộng sản xuất đi đôi với bảo vệ và gìn giữ môi trường sinh thái, ngăn chặn mọi nguy cơ gây ô nhiễm, bảo đảm tính bền vững cho nền kinh tế. Phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ với Quốc phòng an ninh, giữ vững và củng cố tuyến phòng thủ biên giới, xứng đáng với vị trí tiền tiêu an ninh quốc phòng của tỉnh Long An và cả nước.

7. Mục tiêu phát triển:<span style=\'color:purple\'>
Mục tiêu chung :
- Xây dựng Thạnh Hóa trở thành huyện có kinh tế phát triển, xã hội công bằng, văn minh, đảm bảo vững chắc về an ninh quốc phòng, gia tăng phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, tạo sự tăng trưởng nhanh và bền vững, từng bước công nghiệp hóa - hiện đại hóa nền kinh tế.
- Nhanh chóng thoát khỏi nền kinh tế thuần nông, sản xuất độc canh lúa; sớm tạo nên sự phát triển cân đối, toàn diện, phát huy các thế mạnh của huyện nhất là nông - lâm nghiệp, triển khai có hiệu quả việc xây dựng các cụm công nghiệp trên địa bàn huyện.
Mục tiêu cụ thể :
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân giai đoạn : 2003 - 2010 là : 10,5%/năm, trong đó giai đoạn : 2003 - 2005 là: 10,%/năm, giai đoạn : 2006 - 2010 là : 10,8%/năm.
- Cơ cấu kinh tế: Tăng nhanh tỷ trọng thương mại - dịch vụ và công nghiệp để cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng: Nông lâm nghiệp
- Công nghiệp XD - Thương mại dịch vu. Cụ thể đến năm 2010 khu vực nông lâm nghiệp chiếm 50,9%, công nghiệp - xây dựng chiếm 26,8%, thương mại - dịch vụ chiến 22,3%.
- GDP (theo giá thực tế) bình quân đầu người năm 2005 là 6,0 triệu đồng, tương đương 400 USD và đến năm 2010 là 10,8 triệu đồng, tương đương 720 USD.
- Tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách năm 2005 là 2,5%/năm và năm 2010 là 4%/năm (năm 2001 là 2%).
- Giảm tỷ lệ tăng dân số xuống 1,7% vào năm 2005 và còn 1,5% năm 2010.
- Năm 2005 giảm tỷ lệ hộ nghèo còn 6,5% và năm 2010 dưới 3%.
- Phổ cập phổ thông trung học cơ sở theo chuẩn quốc gia vào cuối năm 2006.
- Tỷ lệ hộ sử dụng điện năm 2005 là 85% và năm 2010 là 100%.
- Tỷ lệ hộ sử dụng nước sạch năm 2005 là 80% (khu vực đô thị 100,0%) và năm 2010 là 95%.

LeGiang
01-01-1970, 07:00 AM
HUYỆN THỦ THỪA</span>

Địa chỉ: Ấp Cầu Xây thị trấn Thủ Thừa huyện Thủ Thừa.
Điện thoại: 864215, Fax: 864289

1. Vị trí địa lý kinh tế :
Huyện Thủ Thừa có diện tích tự nhiên 29.901 ha, cách thị xã Tân An 10 Km và cách thành phố Hồ Chí Minh 45 km. Ranh giới hành chính huyện Thủ Thừa cụ thể như sau: Phía Bắc giáp huyện Đức Huệ, phía Đông giáp huyện Bến Lức và Tân Trụ, phía Tây giáp huyện Thạnh Hóa và tỉnh Tiền Giang, phía Nam giáp thị xã Tân An. Thủ Thừa được chia thành 2 vùng: Vùng phía Bắc gồm 7 xã:Long Thạnh, Long Thuận, Tân Thành, Mỹ Lạc, Mỹ Thạnh, Long Thành, Tân Lập thuộc vùng Đồng Tháp Mười, nằm trong vùng lũ (chiếm 75% DT toàn huyện), vùng phía Nam là các xã còn lại, ít bị ảnh hưởng của lũ. Sự phát triển kinh tế - xã hội của Thủ Thừa gắn liền với quá trình khai thác đất hoang, di dân xây dựng vùng kinh tế mới của tỉnh.
Trong phân vùng địa lý kinh tế của tỉnh Long An, Bắc Thủ Thừa thuộc tiểu vùng IV (gồm Thạnh Hóa, Bắc Thủ Thừa và một phần huyện Tân Thạnh). Phương hướng phát triển kinh tế chủ yếu là Nông - lâm nghiệp, mà hàng đầu là sản xuất lúa hàng hóa, trồng tràm cừ. Nam Thủ Thừa thuộc tiểu vùng V (Tân Trụ, Châu Thành, thị xã Tân An, Nam Thủ Thừa, Tây Vàm Cỏ Đông của Bến Lức). Phương hướng sản xuất chính là: sản xuất lúa cao sản và đặc sản, đa dạng hóa cây trồng trên đất lúa, phát triển mạnh chăn nuôi như : heo, gà công nghiệp và gà thả vườn, bò thịt và bò sữa.
Xét về vị trí địa lý và quá trình khai thác tài nguyên phát triển kinh tế xã hội cho thấy lợi thế cơ bản của Thủ Thừa là :
+ Thủ Thừa là cửa ngõ thông thương giữa Đông Nam bộ và ĐBSCL, nằm ở địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam, là vành đai xanh với các nông sản hàng hóa có thế mạnh như : lúa - gạo, mía đường, dưa hấu, thịt bò, heo, vịt có thể tiêu thụ thuận lợi ở vùng Đông Nam bộ, một thị trường lớn nhất Việt Nam.
+ Thông qua chương trình khai thác vùng Đồng Tháp Mười của Chính phủ nên cơ sở hạ tầng từng bước được cải thiện, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao đáng kể.
+ Thủ Thừa có quốc lộ IA, QL62 chạy qua, trong tương lai gần QLN2 và đường cao tốc sẽ được đầu tư xây dựng, là các trục giao thông vô cùng quan trọng trong xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng, mặt khác hệ thống giao thông thủy rất thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa với TX.Tân An và TP.Hồ Chí Minh.
+ Thủ Thừa nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh, vùng lan tỏa công nghiệp, do vậy đây là cơ hội để thu hút đầu tư phát triển các cụm công nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế trên địa bàn huyện.
Ngoài những lợi thế cơ bản nêu trên, Thủ Thừa còn có một số hạn chế :
+ Bị ảnh hưởng của lũ lụt thường niên, dễ gây rủi ro cho sản xuất, hư hỏng cơ sở hạ tầng hạn chế tốc độ phát triển kinh tế - xã hội.
+ Đất đai của Thủ Thừa chủ yếu là đất phèn ở địa hình trũng, nên điều kiện để chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đa dạng hóa sản phẩm để phá thế độc canh cây lúa cũng có phần hạn chế. Mặt khác hầu hết kênh rạch của huyện Thủ Thừa còn chịu ảnh hưởng của mặn, tập trung vào các tháng (2 - 6), vì vậy đầu vụ Hè thu thiếu nước nghiêm trọng.
+ Cơ sở hạ tầng nông thôn như : Giao thông đường bộ, nước sinh hoạt, trạm y tế, điện, trường học, các công trình phúc lợi công cộng chưa phát triển, nên hạn chế lớn đến việc phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện.
Để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội cần thấy hết các lợi thế để khai thác, đồng thời khắc phục và giảm thiểu ảnh hưởng của các yếu tố hạn chế, tạo động lực phát triển nền kinh tế một cách ổn định và bền vững.

2. Đặc điểm tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên :
Khí hậu huyện Thủ Thừa mang tính chất đặc trưng nhiệt đới gió mùa với nền nhiệt cao đều quanh năm, ánh sáng dồi dào, lượng mưa khá lớn và phân bố theo mùa. Nhiệt độ bình quân năm là 27,1oC, tháng 4 là tháng nóng nhất với nhiệt độ trung bình 28,5oC và tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất 25,3oC. Biên độ nhiệt trong năm dao động khoảng 3,3oC và biên độ nhiệt ngày và đêm dao động cao (từ 8oC đến 10oC). Đây là điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp theo hướng thâm canh, đặc biệt là cây lúa, ngô, rau đậu thực phẩm.
Lượng mưa trung bình năm khá lớn (1.532 mm/năm) và phân bố theo mùa rõ rệt. Tổng lượng mưa trong mùa mưa thực sự 1.294 mm(chiếm 85% tổng lượng mưa cả năm), bắt đầu khoảng giữa tháng V và kết thúc vào cuối tháng X (kéo dài 165 ngày). Mùa mưa trùng với mùa lũ gây ngập úng, cản trở quá trình sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
Nguồn nước mặt : Nguồn nước chính cung cấp cho Thủ Thừa là sông Vàm Cỏ Tây, bắt nguồn từ Campuchia chảy qua Vĩnh Hưng, Mộc Hóa, Thạnh Hóa rồi tới Thủ Thừa, đoạn chảy qua huyện dài 17,3 km, độ sâu trung bình 17m, rộng trung bình 300m. Sông Vàm Cỏ Tây được tiếp nước từ sông Tiền qua hệ thống kênh Hồng Ngự, Dương Văn Dương, lưu lượng mùa kiệt 93 m3/s, mùa lũ 580 m3/s, góp phần quan trọng trong việc cung cấp nước ngọt cho sản xuất nông nghiệp và nhu cầu sinh hoạt của người dân. Ngoài ra hệ thống kênh Thủ Thừa, kênh Bo Bo cũng là nguồn cung cấp nước quan trọng cho sản xuất và đời sống của người dân huyện Thủ Thừa.
+ Để phục vụ sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế xã hội, những năm qua bằng nhiều nguồn vốn (TW, tỉnh, huyện , xã và nhân dân) đã xây dựng hệ thống thủy lợi: dẫn ngọt, tiêu úng, xổ phèn, thoát lũ… (tập trung vào giai đoạn 1987 - 1995).
+ Chính nhờ có thủy lợi mà việc khai hoang, phục hóa, thâm canh sản xuất lúa, tăng vụ đạt kết quả cao. Tuy nhiên, so với yêu cầu phục vụ sản xuất và sinh hoạt thì nguồn nước vẫn chưa đủ, vì vậy thủy lợi vẫn là vấn đề then chốt đối với Thủ Thừa, cần được đầu tư hoàn chỉnh tạo nền tảng cho sản xuất nông nghiệp phát triển bền vững.
Nguồn nước ngầm : Đặc điểm nổi bật về nguồn nước ngầm trong khu vực huyện Thủ Thừa là xuất hiện sâu, giá thành khai thác cao, nên chưa khai thác được nhiều.
Trong khu vực huyện Thủ Thừa nước mạch nông xuất hiện ở độ sâu 30 - 40 mét, nhưng do ảnh hưởng của phèn nên chất lượng không tốt, khả năng sử dụng cho sinh hoạt bị hạn chế. Hơn nữa, tại Thủ Thừa nước ngầm có hàm lượng tổng độ khoáng hóa rất thấp (1-3g/l) và PH<4, nên việc sử dụng nước ngầm ở độ sâu <40 m để sinh hoạt rất hạn chế. Nước ngầm có khả năng khai thác ở độ sâu 260 - 290 m, trữ lượng 450m3 ngày đêm/giếng, lưu lượng nước 05 lít/s và chất lượng tốt.
Nhìn chung lưu lượng khá lớn, nhưng khả năng cung cấp đủ nước cho đời sống sinh hoạt của người dân và sản xuất công nghiệp rất hạn chế vì nước ngầm ở tầng sâu giá thành khai thác cao.
Hiện nay, nước sinh hoạt của nhân dân trong huyện sử dụng nhiều nguồn: nước ngầm, nước mưa, lọc lắng nước sông (các xã phía Bắc), các xã phía Nam có điều kiện khai thác nước ngầm hơn, chất lượng nước tốt hơn. Nước ngầm được khai thác ởù một số điểm tập trung do nhà nước đầu tư, riêng một số xã vùng sâu như Long Thạnh, Long Thuận, Mỹ Lạc đã có sự phối hợp tốt phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, xã hội hóa cấp nước sinh hoạt.
Chế độ thủy văn :
Thủ Thừa chịu ảnh hưởng của thủy triều Biển Đông theo chế độ bán nhật triều không đều, có 2 đỉnh và chân triều, song biến động không đều theo tháng. Đỉnh triều lớn nhất vào tháng 12, nhỏ nhất vào tháng 4, 5; biên độ triều trung bình mùa kiệt: 0,75 - 0,85m, mùa lũ 0,45 - 0,60m. Do vậy, vào mùa khô có thể lợi dụng thủy triều để tưới tiêu tự chảy.
Ngập lũ :
Ngập lũ là quy luật thường niên của ĐBSCL, trong đó Thủ Thừa được xếp vào huyện chịu ảnh hưởng ngập nông. Lũ lớn đang có xu thế rút ngắn chu kỳ từ 12 năm xuống còn 6 năm và 3 năm (1961, 1978, 1984, 1991, 1994, 1996, 2000) trong đó lũ năm 2000 đã gây thiệt hại khá lớn cho Thủ Thừa. Tuy nhiên lũ mang đến lượng phù sa đáng kể tăng thêm màu mở cho ruộng đồng, thau chua rữa phèn, tăng nguồn lợi thủy sản, vệ sinh môi trường.
+ Ảnh hưởng của phèn - chua: Theo dõi diễn biến của phèn - chua trên các sông, kênh rạch cho thấy Thủ Thừa bị ảnh hưởng khá nặng. Thời điểm nước trên kênh rạch bị chua là khoảng 10 ngày sau khi bắt đầu mưa, vấn đề chua có thể giải quyết nhanh chóng khi đầu tư hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi.
+ Ảnh hưởng mặn: Hầu hết sông, kênh rạch trên địa bàn Thủ Thừa bị nhiễm mặn từ tháng 2 đến tháng 6, nên cuối vụ Đông Xuân và đầu vụ Hè Thu thiếu nước trầm trọng. Chính vì vậy cần sớm hoàn chỉnh đê bao lửng để giữ ngọt, ngăn mặn.

3. Tài nguyên:
Đất : Theo kết quả điều tra xây dựng bản đồ đất tỷ lệ 1/25.000 do Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường và khoa trồng trọt đại học Cần Thơ xây dựng cho thấy Thủ Thừa có 3 nhóm đất với 12 đơn vị chú giải bản đồ đất; trong đó, nhóm đất phù sa có 3.651 ha (chiếm 12,2% DTTN) và nhóm đất phèn tiềm tàng: 5.209 ha (chiếm 17,4% DTTN), nhóm đất phèn hoạt động 20.055 ha (chiếm 67,1% DTTN).
Nhóm đất phù sa: Có 3 chú giải bản đồ, với diện tích 3.651 ha phân bố dọc theo sông Vàm Cỏ Tây, chủ yếu ở các xã Long Thuận, Long Thạnh. Thành phần cơ giới nặng, độ phì nhiêu khá, đây là loại đất thích hợp cho trồng 2 vụ lúa.
Nhóm đất phèn : (Là nhóm đất chính chiếm 84,5% DTTN toàn huyện).
Nhóm đất phèn có diện tích :25.264 ha, chiếm 84,5% DTTN. Đất phèn có trị số pH thấp và hàm lượng SO4-- cao ( 0,15 - 0,25%), đặc biệt là các ion Fe++ và Al+++ dễ gây độc hại cho cây trồng. Vấn đề sử dụng đất phèn trong sản xuất nông nghiệp ở Đồng Tháp Mười nói chung và huyện Thủ Thừa nói riêng phụ thuộc vào khả năng cung cấp nước ngọt trong mùa khô. Đất phèn phân bố ở hầu hết các xã phía Bắc kênh Thủ Thừa, đất có hàm lượng mùn cao, nếu giải quyết tốt vấn đề thủy lợi thì canh tác lúa đạt năng suất cao.
Đất đai của huyện Thủ Thừa xếp ở cấp ít thích nghi hoặc phải cải tạo mới thích nghi với 2 vụ lúa, 1 lúa -1 màu, lúa - đay, mía, đậu đỗ nên cây trồng sinh trưởng phát triển cho năng suất thấp hơn các vùng đất tốt (đất phù sa). Vì vậy, đây cũng là một hạn chế trong sản xuất nông nghiệp. Dưới đây là tổng hợp diện tích các loại đất theo nhóm trên địa bàn huyện :
Địa chất : Đất đai của huyện Thủ Thừa hình thành từ hai loại trầm tích : (i) Trầm tích phù sa non trẻ Holocene và trầm tích cổ (ii) Pleistocene; trong đó chủ yếu là trầm tích phù sa non trẻ Holocene có chứa vật liệu sinh phèn.
- Trầm tích Holocene bao phủ khoảng 82,9% DTTN của huyện, nó phủ trùm lên trầm tích phù sa cổ. Đặc trưng cơ bản của đơn vị trầm tích này là sự có mặt của Sulfidic, vật liệu chủ yếu hình thành đất phèn. Trầm tích không phân chia khoảng 4,5% DTTN.
Do vậy, khi xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng cần tính toán đầu tư đảm bảo độ ổn định bền vững.
Tài nguyên rừng : Năm 1995 có 478 ha rừng, trong đó hầu hết là tràm cừ ; đến năm 2002 diện tích rừng tăng lên 2.504 ha (tỷ lệ che phủ 10,6%) kể cả cây lâu năm, theo số liệu thống kê đất đai đến 1/10/2003 diện tích rừng là 4.466 ha, trữ lượng khá.
Nguồn tài nguyên động vật dưới tán rừng đã dần được phục hồi, đây là thành quả đáng ghi nhận của chương trình 773/TTg và 661/TTg, đã góp phần sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên cũng như khôi phục hệ sinh thái vốn có của vùng đất phèn.
Tài nguyên khoáng sản :
Theo các tài liệu điều tra địa chất thổ nhưỡng, trên địa bàn huyện Thủ Thừa, chưa cho thấy có loại khoáng sản đặc trưng nào.

4. Dân số và lao động :
Dân số trung bình năm 2002 là 86.595 người, mật độ dân số 290 người/km2, tương đương mức trung bình mật độ dân số của tỉnh Long An (294 người/km2). Dân số thành thị có 15.248 người (chiếm 17,6% dân số), dân số nông thôn 71.347 người (chiếm 82,4%), tốc độ tăng dân số bình quân 1,56%/năm (2002).
Nhân dân huyện Thủ Thừa có truyền thống cách mạng kiên cường, cần cù chịu khó lao động, song trình độ học vấn và chuyên môn thấp, tập trung chủ yếu ở nông thôn. Mật độ dân số bình quân 290 người/km2 (tỉnh Long An 294 người/km2). Từng bước ổn định đời sống dân cư , nhất là các xã vùng sâu bằng các biện pháp mở rộng sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng cụm và tuyến dân cư, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân.
Tổng số lao động toàn huyện năm 2002 la: 47.627 người; trong đó, nông - lâm nghiệp 35.800 người (chiếm 75,2%), công nghiệp - xây dựng 4.760 người (chiếm 10%) và thương mại - dịch vụ 5.867 người (chiếm 12,3%), lao động khác 1.200 người chiếm 2,5%. Như vậy, nguồn nhân lực tập trung chủ yếu cho nông - lâm nghiệp, việc chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành diễn ra chậm.
Nguồn nhân lực ở huyện Thủ Thừa có chất lượng thấp, đây là một nguyên nhân ảnh hưởng đến phát triển kinh tế vì nhân lực là nhân tố quan trọng hàng đầu của lực lượng sản xuất. Lao động có chuyên môn kỹ thuật (đã qua đào tạo) là 1.489 người (chiếm 3,1% lao động xã hội); trong đó, đại học và trên ĐH 325 người, cao đẳng 344 người, trung cấp 820 người. Nếu kể cả trình độ sơ cấp và công nhân kỹ thuật ước khoảng 2,6% thì tổng số lao động được đào tạo là 5,7%, chủ yếu ở khu vực quản lý nhà nước, giáo dục, y tế. Do vậy, đây là một hạn chế của Thủ Thừa.

5. Quan điểm định hướng phát triển huyện Thủ Thừa nhằm khai thác hợp lý các lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên đất, nguồn nước, mở rộng sản xuất, lấy hiệu quả kinh tế và chất lượng cuộc sống làm tiêu chuẩn phát triển. Phát triển sản xuất gắn với thị trường tiêu thụ, chú trọng vào những ngành, những địa bàn hội đủ các yếu tố phát triển, nhất là nông nghiệp chất lượng cao, công nghiệp chế biến, tiểu thủ công nghiệp.
- Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn trên địa bàn huyện, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững, từng bước hội nhập kinh tế quốc tế.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực và hiệu quả, nhất là trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn, thương mại và dịch vụ, từng bước phát triển công nghiệp, trước hết là công nghiệp chế biến nông sản .
- Phát triển nguồn nhân lực, nâng cao mặt bằng dân trí, đảm bảo quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo tinh thần Nghị quyết 18 của Tỉnh ủy Long An.
- Mở rộng sản xuất đi đôi với bảo vệ và gìn giữ môi trường sinh thái, ngăn chặn mọi nguy cơ gây ô nhiễm, bảo đảm tính bền vững cho nền kinh tế.
- Phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ với quốc phòng an ninh, giữ vững ỗn định chính trị và trật tự an toàn xã hội.

6. Mục tiêu phát triển :<span style=\'color:purple\'>
Mục tiêu chung là xây dựng Thủ Thừa trở thành huyện có kinh tế phát triển, xã hội công bằng, văn minh, đảm bảo vững chắc về quốc phòng an ninh, gia tăng phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, từng bước công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
- Nhanh chóng thoát khỏi nền kinh tế thuần nông, sớm tạo nên sự phát triển cân đối, toàn diện, phát huy các thế mạnh của huyện nhất là nông lâm nghiệp, đẩy nhanh sự phát triển công nghiệp – TTCN, thương mại dịch vụ.
Mục tiêu cụ thể : Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2003 - 2010 là 10%/năm, trong đó giai đoạn 2003 - 2005 là 9%/năm, giai đoạn 2006 - 2010 là 10,6%/năm.
- Cơ cấu kinh tế: Tăng nhanh tỷ trọng thương mại - dịch vụ và công nghiệp để cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng Nông lâm nghiệp - Công nghiệp TTCN - Thương mại dịch vụ. Cụ thể đến năm 2010 khu vực nông lâm nghiệp chiếm 37,8%, công nghiệp - xây dựng 31,9%, thương mại - dịch vu 30,3%.
- GDP (theo giá thực tế) bình quân đầu người năm 2005 là 6,2 triệu đồng, tương đương 400 USD và đến năm 2010 là 11 triệu đồng, tương đương 710 USD.
- Tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách năm 2005 là 3%/năm và năm 2010 là 4,0%/năm ( năm 2002 là 2,8% ).
- Giảm tỷ lệ tăng dân số xuống 1,4% vào năm 2005 và còn 1,3% năm 2010.
- Năm 2005 giảm tỷ lệ hộ nghèo còn 5% và năm 2010 còn 3%.
- Phổ cập giáo dục phổ thông cơ sở vào năm 2005.
- Tỷ lệ hộ sử dụng điện năm 2005 là 90,0% và năm 2010 là 100%.
- Tỷ lệ hộ sử dụng nước sạch năm 2005 là 85% (khu vực đô thị: 95%) và năm 2010 là 100%.

LeGiang
01-01-1970, 07:00 AM
HUYỆN VĨNH HƯNG</span>

Điạ chỉ:
Điện Thoại: Tel: 847252, Fax: 847649

1. Vị trí địa lý kinh tế :
Huyện Vĩnh Hưng nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Long An với diện tích tự nhiên 38.452 ha, chia thành 10 đơn vị hành chính (10 xã và 1 thị trấn). Ranh giới hành chính huyện Vĩnh Hưng tiếp giáp với 2 huyện của tỉnh Long An và Campuchia, cụ thể như sau: phía Bắc và Đông Bắc giáp Campuchia, phía Đông Nam giáp huyện Mộc Hóa - tỉnh Long An, phía Tây và Tây Nam giáp huyện Tân Hưng - tỉnh Long An.
Vĩnh Hưng nằm ở vùng sâu của Đồng Tháp Mười, hàng năm chịu ảnh hưởng nặng nề của lũ lụt. Sự hình thành và phát triển kinh tế - xã hội của Vĩnh Hưng gắn liền với quá trình khai thác đất hoang hóa, di dân xây dựng vùng kinh tế mới ở Đồng Tháp Mười. Nằm ở vùng chuyển tiếp giữa bậc thềm phù sa cổ (Pleitocene) với vùng thượng châu thổ ĐBSCL, với hai kiểu cảnh quan chính là bồn trũng phèn giàu nước mưa (trầm tích giàu Sulphur) và lòng các con sông cổ. Đặc trưng rõ nét nhất ở Vĩnh Hưng là khối đất xám dọc biên giới Campuchia và các sông cổ đã được bồi lắng, tạo nên đồng bằng trũng và các ''lung'' phèn. Trong phân vùng địa lý kinh tế của tỉnh Long An, Vĩnh Hưng thuộc tiểu vùng 3 (gồm Vĩnh Hưng, Tân Hưng , Mộc Hóa, Tân Thạnh). Phương hướng phát triển kinh tế chủ yếu là Nông, Lâm nghiệp, mà hàng đầu là sản xuất lúa hàng hóa.
Xét về vị trí địa lý kết hợp với kiến tạo địa chất trầm tích và quá trình khai thác tài nguyên phát triển kinh tế xã hội cho thấy lợi thế cơ bản của vĩnh Hưng:
- Vĩnh Hưng là huyện đầu nguồn được hưởng lợi nguồn nước ngọt từ sông Tiền, sông Cái Cỏ, sông Vàm Cỏ Tây phục vụ cho phát triển sản xuất và đời sống, hàng năm lũ đã bồi đắp một lượng phù sa đáng kể làm màu mỡ đất đai.
- Có hai vùng đất đặc trưng là phù sa cổ và đất phèn, trong điều kiện đủ nước ngọt quanh năm có thể gia tăng trồng lúa trên đất phèn, ngoài ra có thể cải tạo đất xám tiến hành đa dạng hóa cây trồng một cách hợp lý, giảm thế độc canh cây lúa.
- Vĩnh Hưng là huyện thuộc Đồng Tháp Mười đã và đang được chính phủ tập trung đầu tư nên cơ sở hạ tầng ngày càng được cải thiện, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao một bước. Đặc biệt tuyến QL-N1 (TL 831) mới được đầu tư nâng cấp là trục giao thông chính trong giao lưu hàng hóa, tạo động lực cho kinh tế Vĩnh Hưng phát triển.
- Vĩnh Hưng có tuyến biên giới giáp Campuchia dài 45,62 Km (chiếm 31,1% tổng chiều dài biên giới của tỉnh Long An) được xem là vô cùng quan trọng trong việc xây dựng kinh tế kết hợp với củng cố quốc phòng.
Tuy nhiên, vị trí địa lý kinh tế của Vĩnh Hưng có một số hạn chế :
- Bị ảnh hưởng của lũ lụt, dễ gây rủi ro cho sản xuất, hư hỏng cơ sở hạ tầng hạn chế tốc độ phát triển kinh tế - xã hội.
- Kiến tạo bậc thềm phù sa cổ, loại đất xám trên phù sa cổ và đất xám có tầng loang lổ có thành phần cơ giới nhẹ, nghèo dưỡng chất, giữ nước kém, . . . và đất phèn ở địa hình trũng có nồng độ các độc tố cao (SO42-, Al3+, Fe3+ ) dễ gây ảnh hưởng xấu cho cây trồng trong điều kiện chưa hoàn chỉnh thủy lợi.
- Cơ sở hạ tầng nông thôn: Đường giao thông, nước sinh hoạt, trạm y tế, điện, trường học chưa phát triển, xa thị trường tiêu thụ nên hạn chế lớn đến việc phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện.
- Tình hình an ninh trên tuyến biên giới Campuchia còn tiềm ẩn nhiều phức tạp, nạn buôn lậu vẫn còn gia tăng, gây tác động xấu đến sản xuất và đời sống.
Để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội cần thấy hết các lợi thế để khai thác, đồng thời khắc phục và giảm thiểu ảnh hưởng của các yếu tố hạn chế, tạo động lực phát triển nền kinh tế một cách ổn định và bền vững.

2. Đặc điểm tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên :
Khí hậu huyện Vĩnh Hưng mang tính chất đặc trưng nhiệt đới gió mùa với nền nhiệt cao đều quanh năm, ánh sáng dồi dào, lượng mưa khá lớn và phân bố theo mùa. Nhiệt độ BQ năm là 27,2oC, tháng 5 là tháng nóng nhất (29,3oC), tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất 25oC. Biên độ nhiệt trong năm dao động khoảng 4,3oC và biên độ nhiệt ngày và đêm dao động cao (từ 8oC đến 10oC). Lượng mưa trung bình năm (1.447,7 mm/năm) và phân bố theo mùa rõ rệt, lượng mưa trong mùa mưa thực sự 1.332 mm(92% lượng mưa cả năm), bắt đầu ngày 20/V và kết thúc đầu tháng XI (164 ngày). Mùa mưa trùng với mùa lũ gây ngập úng, cản trở quá trình sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế - xã hội của huyện.

Nguồn nước mặt : Vĩnh Hưng nằm ở đầu nguồn nước từ phía Campuchia và sông Tiền Giang dẫn vào địa phận của tỉnh Long An. Đây chính là điểm thuận lợi so với các huyện khác như : Thạnh Hóa, Thủ Thừa, Bến Lức, . . . của tỉnh Long An.

Hệ thống sông rạch, kênh mương được đánh giá như sau :

- Sông rạch tự nhiên gồm Rạch Cái Cỏ, rạch Long Khốt, sông Lò Gạch, rạch Cái Răng, rạch Bông Súng. Đây là các nhánh chính thuộc thượng lưu sông Vàm Cỏ Tây, do thiếu nguồn sinh thủy nên khả năng cung cấp nước tự nhiên vào mùa khô rất hạn chế.

- Kênh mương : Để phục vụ sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế xã hội, những năm qua đã tập trung vốn và sức người đào kênh mương dẫn ngọt, tiêu úng, xổ phèn, thoát lũ,. . . (tập trung lớn nhất vào giai đoạn 1987 - 1995).

- Chính nhờ có thủy lợi mà việc khai hoang, phục hóa, thâm canh sản xuất lúa, tăng vụ đạt kết quả cao. Tuy nhiên, so với yêu cầu phục vụ sản xuất và sinh hoạt thì nguồn nước vẫn chưa đủ, vì vậy thủy lợi vẫn là vấn đề then chốt đối với Vĩnh Hưng, cần được đầu tư hoàn chỉnh tạo nền tảng cho sản xuất nông nghiệp phát triển bền vững.

Nguồn nước ngầm : Đặc điểm nổi bật về nguồn nước ngầm trong khu vực huyện Vĩnh Hưng là xuất hiện sâu, giá thành cao, nên ít được khai thác.

Hiện nay nước sinh hoạt của nhân dân trong huyện hầu hết dùng nước mưa và nước sông rạch. Nước ngầm do giá thành khai thác cao nên mới có một số điểm tập trung do nhà nước đầu tư.

Ngập lũ là quy luật thường niên của ĐBSCL, trong đó Vĩnh Hưng được xếp vào một trong những huyện chịu ảnh hưởng nặng nhất. Lũ lớn đang có xu thế rút ngắn chu kỳ từ 12 năm xuống còn 6 năm và 3 năm (1961, 1978, 1984, 1991, 1994, 1996, 2000) trong đó lũ lịch sử năm 2000 đã gây thiệt hại rất nặng nề cho Vĩnh Hưng.

+ Ảnh hưởng của phèn - chua : Vĩnh Hưng chỉ bị ảnh hưởng chua nhẹ khoảng 20 ngày sau khi bắt đầu mưa, có thể giải quyết khi hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi.

+ Ảnh hưởng mặn : Mặn 4g/l trên sông Vàm Cỏ Tây bình quân nhiều năm chỉ ngang hoặc qua Tuyên Nhơn : 4 - 5 Km về phía thượng lưu. Song, vào các năm 1992, 1993 mặn đã ảnh hưởng sâu hơn và nồng độ mặn cũng cao hơn bình quân nhiều năm. Giới hạn mặn 1g/l đã qua đập Bình Châu (1992) và đến thị trấn Vĩnh Hưng (1993).

Như vậy, độ mặn trên kênh rạch Vĩnh Hưng có tăng; song vẫn nhỏ hơn 4g/l (ngưỡng chịu đựng của các loại cây trồng) nên ít ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng và phát triển của cây trồng.

3. Tài nguyên:
Đất: Theo kết quả điều tra lập bản đồ đất tỷ lệ 1/25.000 năm 2000 của Phân viện Quy hoạch - TKNN cho thấy: Toàn huyện có 2 nhóm đất với 6 đơn vị chú giải bản đồ đất; trong đó: nhóm đất xám có diện tích : 31.526 ha (chiếm 81,99% DTTN) và nhóm đất phèn : 5.980 ha (chiếm 15,55% DTTN). Như vậy, 100% diện tích đất thuộc loại “đất có vấn đề”, đây là một hạn chế của huyện Vĩnh Hưng.
Tổng hợp diện tích các nhóm và loại đất ở huyện Vĩnh Hưng cò thể phân loại như sau:
Nhóm đất xám :
Diện tích : 31.526 ha, chiếm 81,99% DTTN, hình thành các giồng cao phân bố ở hầu hết các xã trong huyện.
Đất xám được hình thành trên vật liệu phù sa cổ nên có thành phần cơ giới nhẹ (thịt nhẹ, thịt pha cát), độ phì thấp, nhất là ở các đỉnh giồng đã có biểu hiện bạc màu (nghèo dinh dưỡng).
Để sử dụng đất xám cần chú ý 3 vấn đề : dinh dưỡng, tầng kết von và mức độ gley để trồng chuyên lúa hoặc luân canh lúa với cây trồng cạn.
Nhóm đất phèn :
Nhóm đất phèn có diện tích : 5.980 ha, chiếm 15,55% DTTN. Đất phèn có trị số pH rất thấp và hàm lượng SO4-- cao (0,15 - 0,25%), đặc biệt là các Ion Fe++ và Al+++ dễ gây độc hại cho cây trồng. Vấn đề sử dụng đất phèn trong sản xuất nông nghiệp phụ thuộc chặt chẽ vào khả năng cung cấp nước ngọt trong mùa khô. Đất phèn phân bố chủ yếu ở các xã: Vĩnh Thuận, Vĩnh Trị, Thái Trị, Vĩnh Bình.
Địa chất : Đất đai của huyện Vĩnh Hưng hình thành từ hai loại trầm tích : Trầm tích phù sa non trẻ (Holocene) và trầm tích phù sa cổ (Pleistocene); trong đó chủ yếu là trầm tích phù sa cổ (Pleistocene).
- Mẫu chất phù sa cổ bao trùm khoảng 84% DTTN nhưng đã bị trầm tích Holocene phủ trùm lên một diện tích không nhỏ. Mẫu chất này có tầng dày từ 3 – 5m, cấp hạt thường thô, tạo cho đất có cấp hạt cát là chủ yếu. Nên phần lớn đất hình thành trên phù sa cổ thuộc nhóm đất xám bị rửa trôi, chua, hoạt tính thấp và bị nhiễm phèn ngoại lai.
- Trầm tích Holocene bao phủ khoảng 14% DTTN của huyện, nó phủ trùm lên trầm tích phù sa cổ. Đặc trưng cơ bản của đơn vị trầm tích này là sự có mặt của Sulfidic, vật liệu chủ yếu hình thành đất phèn.
- Trầm tích không phân chia khoảng 2% DTTN.
Do vậy, khi xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng cần tính toán đầu tư đảm bảo độ ổn định bền vững.
Tài nguyên rừng : Năm 1995 có 3.035 ha rừng, trong đó hầu hết là tràm cừ; đến năm 2001 diện tích rừng tăng lên 3.933 ha (tỷ lệ che phủ 11,47%) kể cả cây lâu năm và vườn tạp, phần lớn rừng trồng từ trước năm 1995 nên trữ lượng khá.
Nguồn tài nguyên động vật dưới tán rừng đã dần được phục hồi, đây là thành quả đáng ghi nhận của chương trình 773/TTg và 661, đã góp phần sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên cũng như khôi phục hệ sinh thái vốn có của vùng đất phèn.
Tài nguyên thủy sản : Qua điều tra của Viện Nghiên cứu Thủy sản II, có nhận xét : Các thủy vực ở huyện Vĩnh Hưng có những nhóm loài đặc trưng như : tảo lục, tảo bánh xe, côn trùng thủy sinh, nhóm tôm cá nước ngọt. Thủy sinh vật có đến hơn 330 loài, gồm 180 loài tảo, 90 loài động vật nổi, 60 loài động vật đáy. Trên sông Vàm Cỏ Tây có hơn : 50 loài cá, 9 loài tôm; trong đó, cá đồng và tôm càng xanh có giá trị kinh tế; song sản lượng không lớn.
Ngoài ra, do môi trường nước nội đồng ngày càng được ngọt hóa, độ chua và thời gian ảnh hưởng chua phèn giảm, tạo điều kiện để các loài thủy sản về cư trú và phát triển, mở ra hướng đi trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng - vật nuôi.
Tài nguyên khoáng sản :
Theo các tài liệu điều tra địa chất thổ nhưỡng, trên địa bàn huyện Vĩnh Hưng, khoáng sản đặc trưng là sét gạch ngói nguồn gốc hỗn hợp sông - đầm lầy, sông - biển tuổi Holoxen. Mức độ điều tra, đánh giá về khoáng sản ở Vĩnh Hưng còn rất sơ lược, hầu như mới chỉ khảo sát mỏ sét gạch ngói với mức độ đánh giá về chất lượng mỏ sét : Cát (>0,1 mm) 9%, bột (0,1 - 0,01 mm) 21%, sét (<0,01 mm) 80%, chỉ số dẻo 24,4, độ co gió 7,5%, cường độ kháng nén (sau khi nung ở 950oC) : 121 kg/cm2, quy mô vừa với cấp trữ lượng P = 4.657 triệu m3.
Với khoáng sản này, Vĩnh Hưng có thể phát triển mạnh công nghiệp sản xuất gạch ngói, phục vụ cho xây dựng trên địa bàn huyện, tạo thêm việc làm cho người lao động, tăng thu nhập, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

4. Dân số và lao động :
Dân số trung bình năm 2001 của huyện Vĩnh Hưng là 42.460 người, mật độ dân số 110 người/km2, chỉ bằng 37,41% mức trung bình mật độ dân số của tỉnh Long An (294 người/km2) nên Vĩnh Hưng được xem là “vùng đất rộng người thưa”; dân số khu vực thành thị có 8.769 người(chiếm 20,65% dân số), dân số nông thôn 33.691 người (chiếm 79,34%). Tốc độ tăng dân số (95-01) là 5,15% năm, riêng năm 2001 là 1,8%, phần lớn là tăng cơ học, do quá trình điều động dân cư đến xây dựng vùng kinh tế mới. Nhân dân cần cù chịu khó lao động, song thiếu kinh nghiệm, trình độ học vấn và chuyên môn thấp. Mật độ dân số bình quân 110 người/km2. Do vậy, Vĩnh Hưng cần có phương án xây dựng cơ sở vật chất nâng cao đời sống các xã vùng sâu, xã biên giới.
Tổng lao động toàn huyện năm 2001 là 22.114 người; trong đó, lao động nông - lâm nghiệp 17.916 người (chiếm 81%), lao động công nghiệp - TTCN 531 người (chiếm 2,4%) và lao động thương mại - dịch vụ 2.702 người (chiếm 12,2%), lao động khác 965 người chiếm 4,4%. Như vậy, nguồn nhân lực tập trung chủ yếu khu vực nông - lâm nghiệp, việc chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm.
Nguồn nhân lực ở huyện Vĩnh Hưng có chất lượng thấp, đây là một nguyên nhân ảnh hưởng đến phát triển kinh tế vì nhân lực là nhân tố quan trọng hàng đầu của lực lượng sản xuất. Số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật và quản lý trong các ngành là 713 người (chiếm 2,23% lao động xã hội); trong đó, trình độ đại học 69 người, cao đẳng 136 người, trung cấp 461 người, dưới trung cấp 47 người. Nếu kể cả trình độ sơ cấp và công nhân kỹ thuật ước khoảng 3% lao động thì tổng cộng số lao động được đào tạo là 5,3%, song lại chủ yếu tập trung ở khu vực quản lý nhà nước, giáo dục, y tế, đây là một tồn tại của huyện Vĩnh Hưng.
Để phát triển kinh tế - xã hội, nhất thiết phải đào tạo, nâng cao mặt bằng dân trí, trình độ chuyên môn cho người lao động, để họ có khả năng tiếp thu và ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất (với chỉ tiêu là 10 - 25% số lao động được đào tạo).

5. Đánh giá chung
Những lợi thế :
- Vĩnh Hưng là huyện biên giới giáp Campuchia (có đường biên giới dài 45,62 km), có cửa khẩu Long Khốt (Thái Bình Trung) và Bình Tứ (Hưng Điền A) nên có lợi thế phát triển dịch vụ thương mại qua biên giới (kinh tế cửa khẩu).
- Vĩnh Hưng là huyện có nguồn nước ngọt dồi dào với hệ thống kênh mương thủy lợi tương đối hoàn chỉnh, đặc biệt là hệ thống kênh tạo nguồn, bảo đảm đủ nguồn nước ngọt cho sản xuất.
- Đất đai có khả năng mở rộng sản xuất nông - lâm nghiệp : 1.011 ha, đất lúa một vụ còn : 7.940 ha nên còn có thể mở rộng diện tích và tăng vụ.
- Trong những năm qua, các ngành thủy lợi, giao thông, điện đã đầu tư tạo cơ sở vật chất ban đầu, góp phần nâng cao mức sống cho nhân dân trong huyện.
Hệ thống giao thông thủy có nhiều thuận lợi, giá cước vận chuyển thấp, cũng được xem là một lợi thế trong phát triển kinh tế - xã hội huyện Vĩnh Hưng.
- Trong quá trình phát triển sản xuất, thông qua ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất ngành nông nghiệp, đã xây dựng thành công một số mô hình sản xuất đạt hiệu quả cao cả về kinh tế - xã hội - môi trường. Do vậy, đây là tiền đề quan trọng cho sản xuất hàng hóa tiếp tục phát triển một cách bền vững.
Những hạn chế :
- Đất đai có chất lượng thấp (đất xám nghèo dưỡng chất, đất phèn nhiều độc tố) lại phân bố trên các địa hình có nhiều chia cắt (giồng cao xen kẽ với lòng sông cổ), phù sa cổ và trẻ phủ lẫn nhau. Đây được xem là hạn chế lớn trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh tế, nên sản phẩm có sức cạnh tranh kém trên thị trường.
- Cơ sở hạ tầng còn thiếu và chưa đồng bộ, đặc biệt là giao thông đường bộ, công trình kiểm soát lũ và cơ sở vật chất phục vụ dân sinh (trường học, y tế, chợ, . . . ) còn thiếu nghiêm trọng, thông tin liên lạc còn yếu, . . . cộng với hàng năm chịu ảnh hưởng của lũ lụt và thiên tai, đã và đang là những cản ngại trong quá trình phát triển kinh tế, v.v . . .
- Đại bộ phận dân cư của huyện Vĩnh Hưng là dân kinh tế mới, có đời sống khó khăn, chất lượng lao động thấp (hơn 95% chưa được đào tạo).
- Công nghiệp - TTCN và Thương mại – Dịch vụ chưa phát triển, nên chưa hỗ trợ tích cực cho nông nghiệp phát triển; nền kinh tế của huyện Vĩnh Hưng “thuần nông”, thu nhập của người dân chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp (>80%), trong khi lũ lụt, thiên tai diễn ra liên tiếp, cộng với biến động bất lợi về giá cả nông sản, làm cho đời sống người dân càng khó khăn, khả năng tích lũy tái đầu tư cho sản xuất hạn chế.
- Tình hình buôn lậu và an ninh trên tuyến biên giới Campuchia đang còn diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những yếu tố không ổn định, do đó huyện Vĩnh Hưng phải gắn phát triển kinh tế với giữ vững an ninh quốc phòng.
- Khả năng thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài vào để phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp, nông thôn nói riêng ở huyện Vĩnh Hưng có hạn chế bởi điều kiện tự nhiên bất lợi: lũ lụt thường xuyên, xa thị trường tiêu thụ, tình hình biên giới vẫn còn tiềm ẩn nhiều phức tạp, muốn phát triển kinh tế phải dựa vào chính nội lực mà tiềm năng này của huyện lại rất có hạn.

6. Quan điểm phát triển của huyện đến năm 2010 là:
Khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực (nguồn nhân lực, tài nguyên đất, nguồn nước), mở rộng sản xuất, lấy hiệu quả kinh tế và chất lượng cuộc sống làm tiêu chuẩn phát triển. Phát triển sản xuất gắn với thị trường tiêu thụ. Thực hiện tốt chiến lược tăng trưởng kinh tế đi đôi với việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động.
- Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa các ngành sản xuất, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng ổn định và bền vững, từng bước hội nhập kinh tế Quốc tế và khu vực . Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực và hiệu quả, nhất là trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn, thương mại và dịch vụ, phát triển công nghiệp, trước hết là công nghiệp chế biến nông sản.
- Phát triển nguồn nhân lực, nâng cao mặt bằng dân trí, đảm bảo quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo tinh thần Nghị quyết 18 của Tỉnh ủy Long An. Mở rộng sản xuất đi đôi với bảo vệ và gìn giữ môi trường sinh thái, ngăn chặn mọi nguy cơ gây ô nhiễm.
- Phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ với an ninh quốc phòng, giữ vững và củng cố tuyến phòng thủ biên giới, xứng đáng với vị trí tiền tiêu an ninh quốc phòng của tỉnh Long An và cả nước.

7. Mục tiêu chung là xây dựng Vĩnh Hưng trở thành huyện có kinh tế phát triển, xã hội công bằng, văn minh, đảm bảo vững chắc về an ninh quốc phòng, gia tăng phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, từng bước công nghiệp hóa - hiện đại hóa.

Nhanh chóng thoát khỏi nền kinh tế thuần nông, độc canh; sớm tạo nên sự phát triển cân đối, toàn diện, phát huy các thế mạnh về nông - lâm nghiệp và dịch vụ - thương mại, đưa Vĩnh Hưng trở thành huyện vững mạnh ở vị trí tiền tiêu trên tuyến biên giới phía Tây Nam tổ quốc.

8. Mục tiêu cụ thể: <span style=\'color:purple\'>Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2001 - 2010 là 9,5%/năm, trong đó giai đoạn 2001 - 2005 là 8,9%/năm, giai đoạn 2006 - 2010 là 10%/năm.
- Cơ cấu kinh tế : Tăng nhanh tỷ trọng thương mại - dịch vụ và công nghiệp để cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng Nông lâm nghiệp - Thương mại dịch vụ - Công nghiệp - TTCN. Cụ thể đến năm 2010 khu vực nông lâm nghiệp chiếm 56,1%, khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 11,7%, thương mại - dịch vu 32,3%.
- GDP (theo giá thực tế) bình quân đầu người năm 2005 là 10,3 triệu đồng, tương đương 680 USD và đến năm 2010 là 15,2 triệu đồng, tương đương 970 USD.
- Tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách năm 2005 là 2%/năm và năm 2010 là 3%/năm.
- Tỷ lệ tăng dân số 2,5% năm 2005 và 2,6% năm 2010 ( tự nhiên và cơ học).
- Năm 2005 giảm tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 4,5% và năm 2010 còn dưới 3%.
- Phổ cập tiểu học theo độ tuổi vào năm 2005, phổ cập phổ thông trung học cơ sở theo chuẩn quốc gia vào năm 2006.
- Tỷ lệ hộ sử dụng điện năm 2005 là 85% và năm 2010 là 100%.
- Tỷ lệ hộ sử dụng nước sạch năm 2005 là 80,0% (khu vực đô thị 100,0%) và năm 2010 là 95,0%.